Fdi Của Trung Quốc Vào Việt Nam Theo Ngành Giai Đoạn 1991-2006

chung cũng như nhà đầu tư Trung Quốc nói riêng. Sang năm 2007, FDI của Trung Quốc tiếp tục tăng mạnh với 130 dự án và tổng vốn đăng ký là 553,74 triệu USD. Riêng 3 tháng đầu năm 2008, Trung Quốc đã có thêm 15 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 52,72 triệu USD đứng thứ 9 trong số 27 quốc gia có dự án được cấp mới tại Việt Nam (Cục đầu tư nước ngoài, 2008). Theo thống kê của Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, tới ngày 22/3/2008, cả nước có 561 dự án FDI từ Trung Quốc còn hiệu lực và tổng vốn đầu tư đăng ký là 1842 triệu USD, Trung Quốc đứng vị trí 11 trong số 82 quốc gia và vùng lãnh thổ hiện đang đầu tư vào Việt Nam.

Có thể thấy các doanh nghiệp Trung Quốc ngày càng quan tâm đến việc đầu tư vào Việt Nam đặc biệt là trong những năm gần đây. Triển vọng này được các chuyên gia đánh giá là sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới do quan hệ của hai nước ngày càng được thắt chặt cùng môi trường đầu tư ngày càng hấp dẫn của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.

1.2. Cơ cấu FDI theo ngành kinh tế

Từ năm 1991 đến năm 2006, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam tập trung trong ngành công nghiệp và xây dựng, với 309 dự án (chiếm 73,6% tổng số dự án) và giá trị vốn đầu tư là 829,97 triệu USD (chiếm 72,6% tổng vốn đầu tư); giá trị thực hiện là 151,53 triệu USD (đạt 18,3%). Ngành nông, lâm, ngư nghiệp đứng vị trí thứ hai với 60 dự án và tiếp sau là ngành dịch vụ với 51 dự án. Nhưng nếu xét về tổng vốn đầu tư thì dịch vụ lại thu hút được nhiều vốn hơn với 205,94 triệu USD (chiếm 18% tổng lượng vốn) trong khi ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ đạt 107,16 triệu USD (chiếm 9,4% tổng lượng vốn). Ngành dịch vụ có tỷ lệ thực hiện cao hơn ngành công nghiệp và xây dựng, đạt 24,3% (vốn thực hiện trong ngành dịch vụ là 50,06 triệu USD). Lượng vốn được thực hiện trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp là 37,36 triệu USD, đạt 34,86% là mức thực hiện cao nhất trong các ngành.


Bảng 10 : FDI của Trung Quốc vào Việt Nam theo ngành giai đoạn 1991-2006


Chuyên ngành

Số dự

án

Vốn đăng ký

(USD)

Vốn thực hiện

(USD)

Công nghiệp và xây dựng

309

829.969.277

151.526.725

- Công nghiệp nhẹ

82

148.047.052

43.446.789

- Công nghiệp nặng

176

588.080.734

80.899.692

- Công nghiệp thực phẩm

21

23.733.718

9.169.636

- Xây dựng

30

70.107.773

18.010.608

Nông lâm ngư nghiệp

60

107.161.345

37.363.641

- Nông lâm nghiệp

49

78.666.339

28.532.777

- Thủy sản

11

28.495.006

8.830.864

Dịch vụ

51

205.935.869

50.064.546

- Dịch vụ

16

16.294.421

1.026.325

- GTVT – Bưu điện

7

5.735.000

772.400

- Khách sạn - du lịch

7

51.188.448

5.032.340

- Tài chính - ngân hàng

1

15.000.000

-

- Văn hóa - y tế - giáo dục

16

22.218.000

5.550.253

- Xây dựng văn phòng - căn hộ

3

40.000.000

17.616.214

- Xây dựng hạ tầng KCN - KCX

1

55.500.000

20.067.014

Tổng số

420

1.143.066.491

238.954.912

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào các nước Đông Nam Á và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - 11

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006)

Trong ngành công nghiệp và xây dựng, Trung Quốc đầu tư nhiều nhất vào lĩnh vực công nghiệp nặng (chủ yếu là khai khoáng, sản xuất và lắp ráp máy móc, phương tiện vận tải) với 176 dự án, giá trị đạt 588,08 triệu USD

(chiếm 70,9% tổng giá trị ngành). Các nhà đầu tư Trung Quốc hiện đang tập trung vào các dự án khai thác và sơ chế khoáng sản (than đá, quặng sắt, quặng bôxit,...) để có thể xuất về Trung Quốc, bổ sung vào nguồn nguyên vật liệu đang thiếu trầm trọng tại Trung Quốc. Lĩnh vực công nghiệp nhẹ (dệt may da giầy, đồ điện gia dụng,...) cũng đạt một lượng đầu tư tương đối lớn là 148,05 triệu USD (chiếm 17,84% tổng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp và xây dựng). Thị trường những ngành hàng này tại Trung Quốc đã bão hòa, sản xuất trong nước mất dần lợi thế so sánh về giá lao động đầu vào nên một số doanh nghiệp Trung Quốc phải tìm cách chuyển sản xuất ra nước ngoài để tìm kiếm thị trường mới. FDI của Trung Quốc vào lĩnh vực công nghiệp thực phẩm, xây dựng chiếm tỷ trọng không đáng kể.

Trong ngành dịch vụ, lĩnh vực thu hút được nhiều lượng vốn FDI của Trung Quốc nhất là dịch vụ xây dựng (văn phòng - căn hộ, KCX - KCN) với tổng trị giá đăng ký lên tới 95,5 triệu USD, chiếm 46,38% giá trị đăng ký vào lĩnh vực dịch vụ. Tiếp sau đó là các ngành khách sạn - du lịch, văn hóa - y tế - giáo dục với lượng vốn đầu tư tương ứng là 51,2 triệu USD và 22,2 triệu USD. Các dịch vụ khác Trung Quốc đầu tư không đáng kể. Đặc biệt phía doanh nghiệp Trung Quốc tỏ ra rất quan tâm tới lĩnh vực tài chính - ngân hàng ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã có một số ngân hàng có vốn đầu tư từ các ngân hàng Trung Quốc như United Bank, World Chinese Bank, Huanan Comercial Bank,... Tháng 3/2006 phía Trung Quốc đã thông qua ngân hàng OCBC là ngân hàng Hoa kiều tại Singapore mua 10% cổ phần ngân hàng VP Bank Việt Nam với trị giá lên tới 10 triệu USD (Trịnh Thị Hậu, 2007). Lĩnh vực tài chính – ngân hàng hứa hẹn sẽ nhận được lượng vốn FDI lớn từ Trung Quốc trong thời gian tới khi Việt Nam ngày càng mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này.

2. Đánh giá

Tình hình đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều bước phát triển đáng ghi nhận, có thể coi là đã thành công bước đầu. Tuy nhiên bên cạnh những thành quả còn có nhiều hạn chế cần được kịp thời khắc phục để quan hệ đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam tương xứng với tiềm năng.

2.1. Thành tựu đạt được

Một số đóng góp chủ yếu của FDI của Trung Quốc đối với kinh tế, xã hội Việt Nam là: góp phần tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam, giải quyết việc làm nâng cao đời sống người lao động và có tác động tích cực lên quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam.

- FDI của Trung Quốc góp phần tăng lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam: Tính đến quý I năm 2008, lượng FDI được thực hiện của Trung Quốc đạt hơn 253 triệu USD, chiếm 0,87% lượng FDI thực hiện cả nước (Cục đầu tư nước ngoài, 2008). Trong khi đó, tổng FDI chiếm khoảng 19% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội (Cục đầu tư nước ngoài, 2007). Từ đó có thể thấy FDI của Trung Quốc chiếm 0,16% tổng vốn đầu tư cho phát triển của Việt Nam. Lượng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam tuy chưa nhiều nhưng với số dự án và giá trị các dự án ngày càng tăng, Trung Quốc hứa hẹn ngày càng đóng góp thêm nhiều vào vốn đầu tư cho phát triển kinh tế của Việt Nam.

- FDI từ Trung Quốc góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống người dân Việt Nam: Theo thống kê, hiện có khoảng 53.000 người lao động Việt Nam có việc làm nhờ có các dự án FDI của Trung Quốc, chiếm 6,1% tổng số việc làm được tạo ra trong khu vực FDI (Trịnh Thị Hậu, 2007). Do các ngành Trung Quốc đầu tư vào nước ta chủ yếu là ngành khai thác chế biến khoáng sản, ngành dệt may... là những ngành cần nhiều lao động và trình độ lao động không đòi hỏi quá cao nên những dự án như vậy sẽ mang lại việc làm cho những lao động phổ thông, đặc biệt là người dân ở vùng sâu vùng xa

nơi tổ chức khai khoáng. Nhờ vậy, người dân lao động đã có thêm thu nhập và đời sống được cải thiện.

- FDI của Trung Quốc trợ giúp quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của Việt Nam: Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp (chiếm đến 66,48% tổng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam), từ đó giúp Việt Nam có được một số nhà xưởng máy móc thiết bị để sản xuất được một số loại hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu người dân. Bên cạnh đó, những KCN, KCX, các nhà máy hiện đại được hình thành dựa trên hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc vào lĩnh vực dịch vụ xây dựng đã thay thế cơ sở hạ tầng lạc hậu tạo nên nguồn lực tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

2.2. Những điểm hạn chế

Mặc dù có nhiều đóng góp tích cực nhưng FDI của Trung Quốc vẫn còn tồn tại một số hạn chế, đó là lượng FDI đăng ký và thực hiện vẫn còn nhỏ, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý và chưa có tác động tích cực lên công nghệ các ngành sản xuất của Việt Nam.

- Kết quả thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng quan hệ kinh tế Việt - Trung: quan hệ Việt – Trung được cả hai nước coi trọng phát triển theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài và hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt 15,85 tỷ USD, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam (Website hợp tác Kinh tế Thương mại Việt Nam - Trung Quốc). Tuy nhiên FDI của Trung Quốc vào Việt Nam chưa được như mong đợi. Tính đến 22/3/2008, lượng vốn đăng ký FDI của Trung Quốc vào Việt Nam chỉ chiếm 2,1% lượng FDI cả nước. Tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký đạt 13,74% còn thấp so với mức thực hiện chung là 33,4% (Cục đầu tư nước ngoài, 2008), chứng tỏ tốc độ triển khai dự án của các nhà

đầu tư Trung Quốc còn chậm. Quy mô các dự án còn nhỏ, bình quân lượng vốn cho mỗi dự án chỉ vào khoảng 2,84 triệu USD, thấp hơn so với quy mô dự án bình quân vào Việt Nam là 8,87 triệu USD (Cục đầu tư nước ngoài, 2008). Số các dự án có vốn đầu tư ban đầu 9-10 triệu USD rất ít, đa phần là các dự án có vốn đăng ký trên dưới 1 triệu USD. Thời gian hoạt động của các dự án là 10-15 năm, thậm chí có dự án chỉ kéo dài 5-7 năm nhằm nhanh chóng thu hồi vốn (ASEAN Secretariat, 2006).

- Cơ cấu FDI chưa hợp lý: Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam hiện tập trung vào các ngành công nghiệp nhưng chủ yếu chỉ là gia công, lắp ráp, khai khoáng. Số dự án đầu tư vào dịch vụ còn ít, các dự án nông lâm nghiệp tuy nhiều nhưng quy mô nhỏ. Ngành khai thác và chế biến khoáng sản được Trung Quốc quan tâm đầu tư nhưng mới chỉ dừng lại ở sơ chế, đem lại ít giá trị gia tăng khiến Việt Nam không có lợi khi xuất các loại khoáng sản này. Bên cạnh đó, ngành này sẽ gây tác động tiêu cực về tài nguyên môi trường cho nước ta nếu không có biện pháp quản lý thích hợp.

- FDI của Trung Quốc chưa có tác dụng nâng cao trình độ công nghệ của các ngành sản xuất ở Việt Nam: Thông thường các dự án FDI sẽ mang đến cho nước nhận đầu tư những lợi ích về chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý công ty, nhưng do các nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư sang Việt Nam là cá nhân hoặc doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ nên năng lực công nghệ còn hạn chế. Trình độ kỹ thuật và công nghệ phía Trung Quốc sử dụng trong các dự án đầu tư sang Việt Nam chỉ ở mức độ trung bình, do đó khó có thể chuyển giao kỹ thuật hiện đại cho các ngành sản xuất của Việt Nam.

Những hạn chế trên đây một phần là do những nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp Trung Quốc như: bản thân nhiều doanh nghiệp Trung Quốc có quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính còn hạn chế, trình độ công nghệ không cao... Tuy vậy, những nguyên nhân chính vẫn là từ phía Việt Nam. Hệ thống luật pháp, chính sách của nước ta về đầu tư hiện đang trong quá trình hoàn

thiện nên chưa thực sự đầy đủ, nhiều khi còn thiếu nhất quán, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc áp dụng. Thủ tục thẩm định và cấp giấy phép đầu tư phức tạp và mất rất nhiều thời gian. Môi trường đầu tư mặc dù có nhiều thuận lợi hơn trước nhưng so với các nước thì vẫn còn nhiều tồn tại trong cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, chi phí kinh doanh... Chỉ bằng cách nhanh chóng khắc phục những hạn chế đó mới có thể giúp Việt Nam đứng vững trong cuộc cạnh tranh khá khốc liệt trong khối các nước ASEAN nhằm thu hút FDI của các nước nói chung và từ Trung Quốc nói riêng.

II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc của các nước khu vực ASEAN giai đoạn 1999-2006 đã đạt được những bước tiến đáng kể. Có được thành công này là do các nước đã giữ vững được ổn định kinh tế, chính trị, thiết lập được hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động FDI vừa hoàn chỉnh, thông thoáng vừa đồng bộ, minh bạch, xây dựng được cơ sở hạ tầng tiên tiến hiện đại, nguồn nhân lực có trình độ cao, đồng thời Chính phủ các nước đã làm tốt công tác “Nhà nước dịch vụ” hỗ trợ tích cực cho hoạt động FDI. Những kinh nghiệm này là bài học quý báu mà Việt Nam có thể học tập nhằm tăng cường thu hút hơn nữa đầu tư trực tiếp nói chung và đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc nói riêng trong thời gian tới.

1. Giữ vững ổn định kinh tế, chính trị là điều kiện tiên quyết thu hút FDI

Ổn định về kinh tế chính trị xã hội là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro cho dòng vốn FDI. Kinh tế chính trị bất ổn sẽ khiến các kế hoạch về đầu tư, kế hoạch hoạt động, sử dụng vốn, các dự tính về lợi nhuận của nhà đầu tư bị phá sản. Do đó, một môi trường kinh tế chính trị bất ổn sẽ khiến các nhà đầu tư không yên tâm làm ăn, các nhà đầu tư tiềm năng từ bỏ dự định đầu tư. Bất kỳ sự bất ổn về chính trị, xung đột khu vực, nội chiến hay biến động kinh tế đột ngột nào đều là những nhân tố tiêu cực góp phần “đẩy lùi” đầu

tư nước ngoài. Đặc biệt đối với các nhà đầu tư nhỏ và vừa, năng lực tài chính có hạn thì ổn định kinh tế chính trị lại càng mang ý nghĩa quan trọng.

Thực tế đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào khu vực ASEAN giai đoạn vừa qua một lần nữa chứng minh tầm quan trọng của việc ổn định kinh tế – chính trị. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 cùng các khó khăn nội bộ của một số nước ASEAN đã có tác động tiêu cực và lâu dài đến đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc vào các nước này. Philippin là một ví dụ điển hình. Trước năm 1997, nước này là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất của dòng FDI từ Trung Quốc trong khu vực ASEAN. Vị thế trên đã bị thay đổi hoàn toàn sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 xảy ra. Khi đó, nền kinh tế Philippin lâm vào khó khăn do những ảnh hưởng trầm trọng từ cuộc khủng hoảng, cộng thêm những bất ổn liên tiếp về chính trị trong nước. Nhà nước không có biện pháp xử lý kịp thời khiến đồng peso của Philippin sụt giá nghiêm trọng, lạm phát trong nước dâng cao, gây khó khăn cho việc duy trì hoạt động của doanh nghiệp Trung Quốc. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ năng lực chống đỡ, làm ăn thua lỗ đã bị phá sản hàng loạt, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh môi trường đầu tư của Philippin trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Hậu quả là cho đến nay các doanh nghiệp Trung Quốc hầu như không còn quan tâm đến việc đầu tư vào Philippin.

Nhiều nước khác trong khu vực ASEAN như Indonesia, Myanma, Thái Lan với môi trường chính trị không ổn định, thường xuyên xảy ra các vụ bạo động, khủng bố cũng phải gánh chịu những tác động tiêu cực đến việc thu hút FDI của Trung Quốc tương tự như Philippin. Bất ổn chính trị dẫn đến chỉ một vài nhà đầu tư Trung Quốc được Nhà nước bảo hiểm cho rủi ro chính trị mới dám đầu tư như trường hợp của Indonesia và Myanma. Thái Lan mặc dù môi trường đầu tư rất thông thoáng, có nhiều chính sách hấp dẫn cùng nhiều yếu tố thuận lợi khác (cơ sở hạ tầng khá hiện đại, nguồn nhân lực dồi dào và có trình độ cao...) nhưng đối với các nhà đầu tư Trung Quốc đặc biệt là các nhà

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/05/2022