Bài Học Trong Công Tác Xây Dựng Hệ Thống Pháp Luật, Chính Sách Về Fdi

đầu tư vừa và nhỏ thì như thế là chưa đủ. Rủi ro bất ổn chính trị nếu xảy ra sẽ là tổn thất quá lớn mà các nhà đầu tư vừa và nhỏ khó có thể gánh chịu. Ngoài ra, trong một môi trường bất ổn, nhà đầu tư không lường trước được các tình huống có thể xảy ra, vấn đề quản trị và lập kế hoạch gặp khó khăn dẫn đến mức độ sinh lời không chắc chắn. Hậu quả là lượng vốn FDI của Trung Quốc đổ vào Thái Lan giai đoạn 1999-2006 còn rất hạn chế.

Trong khi đó, mặc dù cũng chịu tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính nhưng với các biện pháp kịp thời, hiệu quả, Chính phủ Singapore đã nhanh chóng phục hồi nền kinh tế, giữ chân được các nhà đầu tư Trung Quốc tiếp tục bỏ vốn đầu tư vào Singapore. Từ tháng 7 năm 1997, Cục Tiền tệ Singapore (MAS) đã thi hành một số chính sách tiền tệ để hỗ trợ cho nền kinh tế (như cho phép đôla Singapore lên xuống trong phạm vi rộng hơn so với đôla Mỹ) đã giúp nước này thoát khỏi sức ép lạm phát. Giữa năm 1998, Chính phủ Singapore đã phát hành thêm 2 tỷ đôla Singapore và sang tháng 11 năm 1998, Chính phủ tiếp tục trích ngân sách ra 10,5 tỷ đôla Singapore nhằm mục đích giảm chi phí kinh doanh, giúp thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (Tuanvietnam.net, 2008). Đến năm 1999, Chính phủ áp dụng chính sách tài khóa mở rộng đã đem lại các kết quả khả quan. Việc kết hợp các biện pháp tài khóa và tiền tệ phù hợp đã đưa nền kinh tế Singapore phục hồi nhanh chóng. Việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô đã đem lại niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Singapore nên các nhà đầu tư Trung Quốc luôn coi Singapore là một điểm đến hấp dẫn cho luồng vốn đầu tư.

Như vậy, môi trường kinh tế, chính trị ổn định của nước nhận đầu tư là nhân tố tiên quyết trong quyết định đầu tư của các nhà đầu tư Trung Quốc. Nhà nước ta giai đoạn vừa qua đã thực hiện khá tốt nhiệm vụ ổn định kinh tế

– chính trị – xã hội, góp phần quan trọng trong việc thu hút được một lượng vốn FDI khá lớn và ổn định từ Trung Quốc. Trong thời gian tới, Việt Nam

cần tiếp tục nâng cao bài học giữ vững ổn định chính trị – xã hội, đồng thời tăng cường hơn nữa ổn định kinh tế vĩ mô để thu hút vốn FDI một cách hiệu quả từ các doanh nghiệp Trung Quốc.

2. Bài học trong công tác xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách về FDI

Để tăng cường thu hút được nhà đầu tư nước ngoài, các chính sách về đầu tư cần phải thông thoáng với nhiều ưu đãi hơn đồng thời luật liên quan đến đầu tư cần phải đồng bộ, minh bạch.

Luật đầu tư mà các nước trong ASEAN đưa ra ngày càng tự do hơn, thông thoáng hơn cùng với ngày càng nhiều ưu đãi hấp dẫn cho nhà đầu tư nước ngoài. Những điều chỉnh này đã mang lại những tác động tích cực đối với dòng vốn FDI của Trung Quốc vào các nước khu vực ASEAN giai đoạn vừa qua. Việt Nam với sự ra đời của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 2005 cùng các nghị định hướng dẫn được ban hành đã tạo một môi trường pháp lý thông thoáng tương đối cạnh tranh với các nước ASEAN. Tuy nhiên, để hệ thống pháp luật, chính sách về FDI thực sự thông thoáng và hiệu quả, chúng ta cần tham khảo kinh nghiệm của các nước khác trong khu vực ở những khía cạnh sau đây :

Về vấn đề cấp phép đầu tư, nhà đầu tư tại Singapore không phải trải qua bất kỳ thủ tục kiểm tra phiền hà nào. Ủy ban phát triển kinh tế EDB của Singapore xét duyệt các dự án chỉ nhằm mục đích đảm bảo dự án đáp ứng đủ điều kiện để hưởng các chế độ khuyến khích, ưu đãi. Trong khi đó, Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam vẫn duy trì tiền kiểm nặng nề, kiểm tra ngay từ khi đăng ký đầu tư với khá nhiều thủ tục rườm rà: dự án đầu tư nước ngoài dưới 300 tỷ phải đăng ký, trên 300 tỷ phải thẩm tra để cấp phép đầu tư (Điều 46,47, Luật Đầu tư 2005). Tiền kiểm nặng nề sẽ gia tăng chi phí cho cả nhà đầu tư lẫn cơ quan quản lý Nhà nước, khiến cho nhà đầu tư nước ngoài nói chung cũng như nhà đầu tư Trung Quốc nói riêng do dự trong việc quyết định đầu tư vào Việt Nam

Về chính sách ưu đãi: Trong cạnh tranh thu hút FDI của Trung Quốc trong ngành công nghiệp đặc biệt là lĩnh vực dệt may, da giầy, Campuchia có nhiều ưu đãi hơn ta: doanh nghiệp nước ngoài có quyền thuê đất từ 70-90 năm, được miễn thuế thu nhập (20%) với thời hạn 8 năm. Trong khi đó, luật của nước ta quy định thời hạn hoạt động của dự án không quá 50 năm, tối đa là 70 năm đối với một số dự án đặc biệt (Điều 36, Luật Đầu tư 2005). Điều này đã hạn chế việc làm ăn lâu dài của nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn, những người chấp nhận thua lỗ trong thời gian đầu và chỉ thu lợi nhuận sau khi có vị trí vững chắc trên thị trường. Mức thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước ta là 28% và nhà đầu tư nước ngoài được ưu đãi miễn trong thời hạn từ 2-4 năm, kém ưu đãi hơn nhiều so với tại Campuchia. Với những ưu đãi cạnh tranh như vậy, Campuchia đã thực sự thu hút được các doanh nghiệp Trung Quốc trong lĩnh vực dệt may, da giầy, lượng vốn của các nhà đầu tư Trung Quốc đổ vào ngành này của Campuchia cao hơn nhiều so với vào Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Một vấn đề khác cần quan tâm là các chính sách ưu đãi có đem lại ưu thế cho các nước hay không còn tùy thuộc vào sự đồng bộ, minh bạch của các nguồn luật cùng các văn bản hướng dẫn thi hành. Chỉ khi các nước xây dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và rõ ràng, minh bạch thì nhà đầu tư nói chung cũng như nhà đầu tư Trung Quốc nói riêng mới có thể dễ dàng nắm bắt và tin tưởng bỏ vốn đầu tư.

Singapore đã ban hành một hệ thống hoàn chỉnh các luật liên quan đến đầu tư như Luật mở rộng kinh tế 1967, Luật công ty 1967, Luật thuế thu nhập 1967, Luật khuyến khích mở rộng kinh tế 1971... (Bộ Thương mại, 2000). Các luật này đều có nội dung rõ ràng và thống nhất với nhau, giúp cho các nhà đầu tư trong đó có nhà đầu tư Trung Quốc dễ dàng tìm hiểu các điều kiện và các ưu đãi khi tiến hành đầu tư tại Singapore.

Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào các nước Đông Nam Á và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - 12

Việt Nam cần quan tâm hơn nữa về vấn đề đồng bộ và minh bạch của luật để tăng cường thu hút FDI nói chung cũng như FDI của Trung Quốc nói

riêng. Mặc dù chúng ta đã rất nỗ lực trong việc gia tăng mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước bằng cách ban hành một loạt các luật mới liên quan đến đầu tư vào năm 2005 như Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật sở hữu trí tuệ, Luật đấu thầu, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng... cùng nhiều nghị định hướng dẫn thi hành luật nhưng đến nay vẫn còn nhiều tồn tại. Theo Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư 2005, các luật liên quan đến đầu tư (Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật môi trường, Luật xây dựng...) đều còn vướng mắc nhiều vấn đề như các quy định chồng chéo giữa các luật, nhiều quy định không rõ ràng thậm chí còn có các quy định trái ngược, mâu thuẫn nhau... (Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư 2005, 2008). Những bất cập này gây ra hậu quả là các địa phương nhận thức và hiểu khác nhau về quy định của luật, lúng túng trong việc lựa chọn luật áp dụng, từ đó dẫn tới việc áp dụng luật không thống nhất giữa các địa phương. Điều này đã làm giảm tính hiệu quả trong công tác thi hành luật và gây tâm lý lo ngại cho nhà đầu tư trong đó có nhà đầu tư Trung Quốc. Một ví dụ điển hình như nhà đầu tư Trung Quốc khi đầu tư vào các lĩnh vực thuộc danh mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện (tài chính, ngân hàng, kinh doanh bất động sản, khai thác tài nguyên, dịch vụ giải trí...), các điều kiện cụ thể của các dự án đầu tư vẫn chưa có văn bản quy định rõ ràng hoặc quy định hướng dẫn áp dụng theo các luật chuyên ngành, gây khó khăn cho cơ quan quản lý đầu tư ở các địa phương cũng như cho nhà đầu tư Trung Quốc trước khi quyết định đầu tư. Ngoài ra, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện còn bao gồm các lĩnh vực đầu tư theo lộ trình thực hiện cam kết quốc tế trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn hoặc hướng dẫn, áp dụng không thống nhất về thực hiện các cam kết nói trên đặc biệt là đối với lĩnh vực dịch vụ, gây cản trở cho việc thực hiện. Cụ thể như trong lĩnh vực dịch vụ, đối với các dự án đăng ký thực hiện nhiều mục

tiêu khác nhau nhưng mức độ cam kết mở cửa khác nhau, do chưa có văn bản hướng dẫn rõ ràng đã khiến các cơ quan quản lý không tìm ra được biện pháp xử lý, gây tâm lý e ngại đối với các nhà đầu tư. Đặc biệt là đối với trường hợp các nhà đầu tư Trung Quốc mua cổ phần của doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại hình ngành nghề khác nhau, tỷ lệ mua cổ phần trong một số lĩnh vực, ngành nghề cũng chưa có văn bản nào quy định rõ là bao nhiêu. Ngoài ra, nhiều vấn đề khác như trình tự, thủ tục mở chi nhánh, thanh lý, giải thể, chế độ báo cáo thống kê... chưa được hướng dẫn đầy đủ, hoặc chưa được sửa đổi phù hợp... Những tồn tại này đã làm giảm tính hiệu quả khi thi hành các Luật, chính sách, khiến cho hoạt động thu hút FDI của Trung Quốc vào Việt Nam giai đoạn qua còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân nằm ngay trong nội dung của các văn bản pháp luật có liên quan, do đó cần phát hiện những bất hợp lý, kém rõ ràng, chồng chéo, trùng lặp và không tương thích để có biện pháp giải quyết triệt để, tạo một khung pháp lý đồng bộ và minh bạch, giúp các nhà đầu tư nói chung cũng như nhà đầu tư Trung Quốc nói riêng dễ dàng tìm hiểu và đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng.

Như vậy, để có thể thu hút hơn nữa nguồn vốn FDI dồi dào từ Trung Quốc, thời gian tới nước ta cần tích cực học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực: xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhưng đơn giản, tăng cường hơn nữa các ưu đãi hợp lý dành cho nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời hạn chế tối đa các thủ tục hành chính rườm rà, làm cho hệ thống luật và chính sách liên quan đến hoạt động FDI của Việt Nam thực sự cạnh tranh với các hệ thống luật và chính sách của các nước trong khu vực nói riêng và toàn thế giới nói chung.

3. Bài học trong công tác tạo môi trường đầu tư thuận lợi, trong đó Nhà nước thân thiện, đóng vai trò là người hỗ trợ cho các nhà đầu tư

Để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, một nước cần tạo dựng được một môi trường đầu tư thuận lợi trong đó Nhà nước đóng vai trò

hỗ trợ, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư vào một nước phải giải quyết rất nhiều vấn đề từ khâu đăng ký đầu tư đến khâu thực hiện dự án và cuối cùng là chấm dứt hoạt động. Các hoạt động này đều ít nhiều liên quan đến chức năng quản lý của Nhà nước. Rõ ràng nếu Nhà nước nào có các hoạt động hỗ trợ tích cực, tạo dựng được các yếu tố thuận giúp cho nhà đầu tư dễ dàng xử lý các vấn đề trên thì nước đó sẽ có nhiều cơ hội thu hút đầu tư hơn. Các hoạt động hỗ trợ của Nhà nước bao gồm các hoạt động xúc tiến đầu tư (giới thiệu hình ảnh đất nước, môi trường đầu tư, cơ hội đầu tư), các hoạt động hỗ trợ đầu tư, các dịch vụ tạo thuận lợi cho đầu tư, thủ tục hành chính...

Nhiều nước trong khu vực đã có hoạt động xúc tiến đầu tư rất hiệu quả đồng thời tạo ra được một môi trường thông thoáng với thủ tục đơn giản đã thu hút các nhà đầu tư nói chung cũng như nhà đầu tư Trung Quốc nói riêng lựa chọn là nơi bỏ vốn đầu tư. Điển hình như Singapore. Chính phủ Singapore đã thực hiện rất tốt chức năng “Nhà nước dịch vụ” đối với nhà đầu tư thông qua việc cung cấp đầy đủ thông tin đầu tư với các hoạt động xúc tiến đầu tư có hiệu quả, hướng dẫn và tạo điều kiện để nhà đầu tư thực hiện dự án một cách nhanh chóng và tiện lợi nhất. Ủy ban phát triển kinh tế EDB trực thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp Singapore đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp FDI do chuyên môn hóa vào hoạt động xúc tiến đầu tư, phối kết hợp đồng bộ với các ban ngành khác như cơ quan một cửa, tạo điều kiện rất thuận lợi cho doanh nghiệp nước ngoài đến xin tư vấn và hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật. EDB mở văn phòng tại các nước trên thế giới trong đó có Trung Quốc nhằm giới thiệu cơ hội đầu tư và trợ giúp các đối tác nước ngoài muốn đầu tư vào Singapore. Ngoài ra, EDB còn cung cấp hàng loạt các biện pháp trợ giúp doanh nghiệp FDI như mở trang web đăng ký thành lập công ty (the Registry of Company) cung cấp đầy đủ thông tin và mẫu đơn cần thiết tải dễ dàng từ Internet, hỗ trợ 80% kinh phí hoạt động cho các quỹ phát triển

nguồn nhân lực nội bộ doanh nghiệp bằng việc lập Quỹ phát triển kỹ năng với nhiều chương trình đào tạo đa dạng (chương trình đào tạo công nghệ thông tin, quản trị kinh doanh, đào tạo cán bộ...), hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển... (Bộ Thương mại, 2000). Các hoạt động xúc tiến đầu tư tiến hành thuận lợi và có hiệu quả là nhờ Chính phủ Singapore luôn dành một khoản kinh phí không nhỏ cho hoạt động này. Ví dụ như năm 1999, Singapore chi 45 triệu đôla Singapore tương ứng với 14% ngân sách nhà nước cho hoạt động xúc tiến đầu tư (Bộ Thương mại, 2000). Các nhà đầu tư sau khi đặt trụ sở tại Singapore còn nhận được trợ giúp tích cực từ Tổ chức kinh doanh quốc tế IE Singapore. Nhằm khuyến khích hợp tác kinh doanh quốc tế, IE Singapore đã hình thành các chương trình trợ giúp đa dạng, thiết lập các mối quan hệ chiến lược với Chính phủ và các tổ chức kinh doanh khác thông qua mạng lưới đa dạng của họ, và thường xuyên tổ chức các sự kiện thích hợp cho cộng đồng kinh doanh ở Singapore, từ đó giúp nhà đầu tư tìm kiếm cơ hội kinh doanh trên đất Singapore. Singapore được Ngân hàng thế giới (WB) xếp hạng là nước có môi trường kinh doanh tốt nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong nhiều năm trở lại đây. Nhà đầu tư chỉ phải trải qua rất ít bước thủ tục, tốn ít thời gian cũng như chi phí trong trong quá trình hoạt động kinh doanh từ khâu khởi sự doanh nghiệp, giải quyết giấy phép, thuê mướn nhân công, nộp thuế cho đến khâu đóng cửa doanh nghiệp. Nhà đầu tư tại Singapore luôn hài lòng với các biện pháp hỗ trợ mà Nhà nước cung cấp.

Chính việc cung cấp các biện pháp hỗ trợ hết sức hiệu quả của Chính phủ Singapore đã lôi kéo các nhà đầu tư nói chung cũng như các nhà đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ của Trung Quốc nói riêng lựa chọn Singapore là địa điểm đầu tư. Nhà nước ta có thể học hỏi kinh nghiệm này từ Chính phủ Singapore để tạo được một môi trường đầu tư thuận lợi, góp phần thu hút hơn nữa các nhà đầu tư Trung Quốc đến Việt Nam.

4. Bài học về việc chuẩn bị cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực để chủ động tiếp nhận đầu tư.

Một môi trường kinh tế thuận lợi với cơ sở hạ tầng hiện đại và nguồn nhân lực có trình độ cao của nước nhận đầu tư là một điều kiện quan trọng tạo thuận lợi để nhà đầu tư nước ngoài có thể triển khai và thực hiện dự án. Nắm bắt được điều này, nhiều nước trong ASEAN đã rất nỗ lực phát triển hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực để tăng cường thu hút FDI của Trung Quốc và đã đạt được thành công nhất định. Những nỗ lực tạo dựng các yếu tố môi trường kinh tế thuận lợi cho lĩnh vực dịch vụ cơ bản của Singapore và cho lĩnh vực khai thác tài nguyên của Indonesia thời gian qua là hai điển hình cho Việt Nam học tập.

Singapore có định hướng thu hút FDI vào các lĩnh vực dịch vụ cơ bản như tài chính (ngân hàng, bảo hiểm), giao nhận vận tải đặc biệt là vận tải biển, bất động sản (xây dựng văn phòng, hạ tầng khu công nghiệp), xuất nhập khẩu... nên rất chú trọng xây dựng nâng cấp các cơ sở vật chất cần thiết cho phát triển các ngành dịch vụ này như cơ sở hạ tầng giao thông (hệ thống đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển, hệ thống cầu cảng, kho bãi...), mạng lưới viễn thông...

Trong lĩnh vực vận tải biển, để tận dụng tối đa vị trí địa lý chiến lược là trạm trung chuyển hàng hóa thuận lợi trên con đường biển nối giữa ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Singapore rất tích cực phát triển hệ thống cầu cảng đặc biệt là cảng nước sâu, bến bãi, gia tăng năng lực xếp dỡ hàng hóa... Hạ tầng cảng biển thuận lợi giúp gia tăng hiệu suất hoạt động (thông qua việc tăng quy mô, giảm thời gian bốc xếp...) của dịch vụ vận tải biển, nhờ đó thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn trong đó có các TNCs của Trung Quốc đầu tư vào dịch vụ này.

Trong lĩnh vực tài chính, giao dịch chủ yếu thực hiện thông qua mạng lưới viễn thông nên việc Singapore có hệ thống viễn thông hiện đại trong

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí