Dự Báo Triển Vọng Thu Hút Fdi Từ Hoa Kỳ.


thi hành có hiệu lực từ ngày 1-1-2004 quy định rõ các mức ưu đãi thống nhất cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời bổ sung một số tiêu chí áp dụng ưu đãi mới cho các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại và sử dụng nhiều lao động.

Trong những năm qua, thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế của Đảng, chúng ta đã chủ động hội nhập kinh tế cả song phương và đa phương với nhiều đối tác, trên nhiều lĩnh vực. Đây cũng là một trong những động lực chính của cái cách kinh tế ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với trên 171 quốc gia và quan hệ đầu tư với 70 nước và vùng lãnh thổ. Năm 1993 Việt Nam đã nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế như: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB). Ngày 28-7-1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Việt Nam cũng đã chính thức tham gia Khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ ký ngày 13-7-2000 được Quốc hội hai nước phê chuẩn và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 10-12-2001. Quá trình hội nhập đã làm cho thị trường trở nên cạnh tranh hơn, buộc các doanh nghiệp trong nước phải thay đổi cơ cấu. Đặc biệt Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngày 11-1-2007 đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đối với vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế.

Đối với quan hệ đối ngoại với Hoa Kỳ. Công tác xúc tiến đầu tư đã có những bước chuyển biến tích cực đồng thời được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở cả trong nước và ngoài nước dưới nhiều hình thức đa dạng, tập trung vào các địa bàn chiến lượng và các dự án trọng điểm. Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng đã trực tiếp tham gia các diễn đàn doanh nghiệp trong và ngoài nước, lắng nghe nguyện vọng và giải thích, chỉ đạo kịp thời nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Đồng thời trong các chuyến viếng


thăm và làm việc với các nước trong đó có Hoa Kỳ, lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã trực tiếp kết hợp nhiều chương trình vận động xúc tiến đầu tư. Đặc biệt là chuyến đi thăm của Thủ tướng Nguyễn Minh Triết hồi tháng 4 vừa qua là một sự kiện quan trọng trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ, là cơ hội để hai bên có những cải thiện tích cực, mở rộng quan hệ thương mại và tăng cường đầu tư. Với những nỗ lực về cải thiện môi trường đầu tư trong nước, việc tăng cường xúc tiến đầu tư nước ngoài, việc ký kết và thực hiện các hiệp định song phương liên quan đến đầu tư, đã xuất hiện động thái mới về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong đó có Hoa Kỳ, thể hiện qua việc gia tăng số lượng các nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam khảo sát, tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh. Xu hướng trên cũng sẽ tạo điều kiện để hình thành các dự án đầu tư mới trong tương lai. Cụ thể là:

* Cơ hội

- Khả năng tiếp cận thị trường quốc tế được mở rộng, vì mở rộng quy chế tối huệ quốc (MFN), đối xử quốc gia (NT) lâu dài và vô điều kiện gắn liền với quy chế thành viên WTO. Chúng ta sẽ tránh được những biện pháp mạnh trong hành động bán phá giá của các đối tác thương mại.

- Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam có điều kiện tham gia mạnh mẽ và hệ thống thương mại quốc tế, bởi việc tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng và có tính bắt buộc, một cơ chế mà các phán quyết có khả năng thực thi lớn, là một lợi ích tiềm tàng quan trọng đối với Việt Nam. Thực tế cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã chứng tỏ là thành công trong việc tạo cơ hội để các nước thành viên đạt được yêu cầu trong các vụ kiện về những hoạt động gây tổn hại đến thương mại của những nước thành viên khác. Là thành viên của WTO, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có quyền bình đẳng hơn trong các vụ kiện về tranh chấp thương mại quốc tế.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

- Có điều kiện nâng cao tính cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ. Cơ chế, chính sách và thể chế kinh tế thị trường được hoàn thiện hơn. Vị thế của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế và của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế được tăng cường.

- Có khả năng tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu khoa học – công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh năng động sáng tạo.

Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam - 12

* Thách thức

- Chi phí sản xuất kinh doanh, dịch vụ công cộng và các chi phí khác như: vận tải, viễn thông, điện, nước… còn cao hơn so với các nước khác trong khu vực.

- Môi trường kinh doanh, đầu tư còn nhiều hạn chế; nhu cầu thị trường tăng chậm, dung lượng thị trường nhỏ và sức mua trong nước còn thấp, trong khi đó cung về nhiều sản phẩm đã bị bão hòa; hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn nhiều thiếu thốn; các yếu tố thị trường chưa được xác lập và phát triển đầy đủ. Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập, thủ tục hành chính còn phiền hà; tình trạng thi hành pháp luật còn thiếu nghiêm túc và tham nhũng vẫn đang trở thành quốc nạn.

- Vấn đề cắt giảm thuế quan, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan, xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu, thực hiện bình đẳng không phân biệt đối xử trong thương mại và đầu tư, công khai, minh bạch hóa chính sách, thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ… là những thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong giai đoạn này.

- Việc không phân biệt đối xử được quy định ở hai quy chế MNF và NT là nguyên tắc nền tảng của WTO. Đồng thời đây cũng là những khó khăn đối với chúng ta để thực hiện đúng. Cam kết về thương mại hàng hóa, đặc biệt về vấn đề thuế quan khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết (theo bản chào


4) cắt giảm 99,7% số dòng thuế của biểu thuế 8 so với mức thuế bình quân 18% với lộ trình cắt giảm hầu hết các mặt hàng từ 3-5 năm và giảm dần, tiến tới loại bỏ các công cụ phi thuế quan quản lý xuất nhập khẩu. Việt Nam phải xây dựng lộ trình cắt giảm các rào cản thuế quan một cách hợp lý. Những vấn đề này đòi hỏi Chính phủ phải xem xét, vận dụng phù hợp với quy trình của WTO, đặc biệt cần chú ý vấn đề trợ giá xuất khẩu.

Nhìn chung, mở cửa hội nhập với quốc tế và khu vực đã mang lại cho nền kinh tế Việt Nam những thành công nhất định trên con đường phát triển kinh tế - xã hội tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn FDI từ Hoa Kỳ.

3.1.1.2 Bối cảnh quốc tế

Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã làm cho tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất vượt khuôn khổ quốc gia, mở rộng trên phạm vi quốc tế, làm cho phân công lao động quốc tế trở nên sâu sắc và rộng khắp toàn cầu, bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và phát triển với tốc độ rất nhanh. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thì trong sản xuất – kinh doanh các quốc gia thường chú ý đến sản phẩm “vô hình”, các sản phẩm có hàm lượng khoa học – công nghệ cao so với các loại sản phẩm có hàm lượng nguyên liệu và lao động giản đơn nhiều như trước đây. Sự phát triển của các công nghệ cao (công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin, công nghệ viễn thông… ) đã thay đổi về chất lực lượng sản xuất của loài người. Công nghệ thông tin hiện đại đã phá vỡ hàng rào ngăn cách về không gian giữa các vùng trên thế giới, làm cho các quốc gia xích lại gần nhau. Năm 1991 trên thế giới mới có 31 nước nối mạng Internet thì năm 1997 có 179 nước; năm 1996 có 67,5 triệu người sử dụng internet, thì năm 2000 là khoảng 350 triệu người và năm 2008 vượt ngưỡng hơn 1 tỷ người.


Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã dẫn đến cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư của các nước, các công ty xuyên quốc gia… ngày càng có xu hướng biến đổi thích ứng với cấu trúc thị trường. Trong đó ngành dịch vụ trở thành hướng đầu tư chủ yếu, với lượng vốn tăng dần. Công nghệ thông tin phát triển là công cụ quan trọng làm cho toàn bộ thế giới được kết nối với nhau, biến cả thế giới thành một môi trường chung toàn cầu. Điều này cũng đã và đang đặt ra yêu cầu đối với Nhà nước trong quản lý các sản phẩm, đảm bảo cuộc sống của con người.

Toàn cầu hóa kinh tế mở ra sự phụ thuộc và liên hệ lẫn nhau giữa các quốc gia, khu vực, doanh nghiệp và cá nhân trên các mặt của đời sống kinh tế. Giữa các nền kinh tế có sự phụ thuộc lẫn nhau như các bộ phận hợp thành không thể chia cắt của một hệ thống kinh tế thế giới. Và với sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa kinh tế, trách nhiệm của chính phủ các nước đối với sự phát triển toàn cầu ngày càng lớn hơn. Toàn cầu hóa kinh tế đã buộc cộng đồng thế giới phải chú ý đến vấn đề phân phối chi phí và lợi ích giữa các quốc gia. Việc tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế cũng mang lại những cơ hội để các quốc gia phát triển kinh tế, có được những lợi ích của mình. Do đó, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia, các hoạt động thương mại, đầu tư, tài chính đều được gia tăng mạnh mẽ. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa quản lý vĩ mô trở thành yếu tố có vai trò quyết định, trở thành động lực quan trọng trong hoạt động kinh tế toàn cầu. Sự phát triển kinh tế toàn cầu từng bước đặt ra yêu cầu thiết lập các định chế và tiêu chuẩn điều tiết xuyên quốc gia. Chính phủ các nước khi chế định luật pháp, chính sách, tiêu chuẩn của mình phải tính đến tác động và ảnh hưởng của bối cảnh quốc tế. Toàn cầu hóa kinh tế tuy là xu thế khách quan nhưng đang chịu sự chi phối của Mỹ và các nước công nghiệp phát triển. Đó là phát triển mở rộng


sự hợp tác kinh tế đồng thời cũng làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt, quyết liệt.

Việt Nam cần chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế với chiến lược, sách lược đầy đủ và đúng đắn. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng tất yếu lôi kéo tất cả các nước tham gia, làm cho thị trường của từng nước gắn kết với thị trường thế giới, tạo nên sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế, dẫn đến làn sóng sát nhập và thôn tính giữa các công ty đa quốc gia. Hơn nữa, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang diễn ra như vũ bão, các nước đang phát triển đang vươn lên chiếm lĩnh công nghệ mới và thực hiện chuyển giao công nghệ, từ đó thúc đẩy dòng chảy vốn đầu tư toàn cầu.

Kinh tế thế giới trong những năm tới lấy đà tăng tốc và sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, dựa trên sự đổi mới công nghệ mà các nhà kinh tế gọi là pha dâng cao của chu kỳ sóng dài thứ năm theo UNCTAD, từ nay đến năm 2020, nguồn vốn đầu tư chảy vào các nước châu Á sẽ tăng 6%/năm, trong khi mức bình quân của thế giới là 3,6%/năm. [37]

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên, hoạt động thu hút FDI của Việt Nam cũng sẽ gặp những khó khăn nhất định như: Một là; Ở trong nước tình hình kinh tế chịu nhiều tác động bất lợi từ thị trường thế giới, giá cả nguyên liệu đầu vào tăng cao, thiên tai, lũ lụt… làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp; Dịch vụ kết cấu hạ tầng còn hạn chế (quá tải về dịch vụ cảng biển, thiếu điện, phí dịch vụ cao) ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp và gây tâm lý lo ngại đối với các nhà đầu tư mới; lợi thế về nguồn lao động trẻ dồi dào chưa được phát huy đầy đủ do công tác đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu… Hai là Cạnh tranh trong thu hút FDI giữa các nước diễn ra gay gắt, trong đó Trung


Quốc, Ấn Độ vẫn là nơi có lợi thế về thị trường, lao động và môi trường đầu tư được đánh giá là hấp dẫn hàng đầu thế giới.

Có thể nói, bối cảnh phát triển mới của thế giới và của Việt Nam với tư cách là thành viên của WTO đang đặt ra cho nước ta nhiều vấn đề cần quan tâm trong thu hút vốn FDI từ Hoa Kỳ trong thời gian tới:

- Cũng như các nước khác, nước ta phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại, trong đó có kinh tế đối ngoại, để thích ứng với sự biến động của thế giới, đặc biệt của Hoa Kỳ, đồng thời phải kịp thời đề ra chủ trương và giải pháp chủ động đối phó với những trạng thái bất thường của tình hình chính trị và kinh tế thế giới.

- Mặc dù tình hình thế giới diễn biến phức tạp, nhưng nguồn vốn đầu tư quốc tế tương đối ổn định, trong khi nhu cầu và năng lực thu hút FDI của nước ta đang rất càn và đã gia tăng rất nhiều. Đó là điểm gặp nhau của tình hình quốc tế và trong nước có liên quan đến hoạt động FDI ở nước ta.

3.1.2 Dự báo triển vọng thu hút FDI từ Hoa Kỳ.

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế vừa có những yếu tố thuận lợi vừa đan xen nhiều khó khăn. Dưới sự chỉ đạo tích cực của Chính phủ, các bộ ngành, địa phương đã tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, phát huy những thuận lợi vượt lên khó khăn và giành được kết quả đáng khích lệ trong việc tăng cường và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Có thể thấy triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là Hoa Kỳ - một nước có tiềm lực kinh tế mạnh, với hàng trăm công ty đa quốc gia với quy mô lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh vực có xu hướng tăng lên. Hoa Kỳ là chủ đầu tư của nhiều nước, chủ yếu đầu tư vào những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển. Trình độ lao động có chuyên môn cao, luật pháp ổn định rõ ràng, mức độ rủi ro thấp. Với những tiêu chí này thì các nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là địa chỉ hấp dẫn để thu hút FDI.


Đối với nước ta, sau sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, FDI từ Hoa Kỳ đã tăng lên. Có thể thấy tình hình môi trường đầu tư của nước ta đang được cải thiện, công tác xây dựng và hoàn thiện luật pháp tiếp tục được tăng cường. Có thể dự báo triển vọng thu hút vốn FDI từ Hoa Kỳ từ nay tới năm 2020 như sau:

Một là: Dòng vốn FDI từ Hoa Kỳ vào Việt Nam sẽ được hướng nhiều hơn vào lĩnh vực xây dựng và dịch vụ, nhất là các dịch vụ yêu cầu cao về kỹ năng nghiệp vụ, công nghệ và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế.

Cùng với những thành tựu kinh tế đạt được trong thời gian qua, sự ổn định hơn, thông thoáng hơn trong cơ chế, chính sách, những cải thiện đáng kể về kết cấu hạ tầng, những thành quả tốt đẹp trong quan hệ ngoại giao trên trường quốc tế đã tạo nên một Việt Nam hội đủ các điều kiện để tiếp nhận cũng như hấp dẫn các nhà đầu tư Hoa Kỳ.

FDI từ Hoa Kỳ thường gắn với các ngành công nghệ cao và những sản phẩm phức tạp nhưng Việt Nam có các điều kiện cần thiết để đảm bảo cho đầu tư tăng trưởng. Do đó, trong thời gian tới xu hướng FDI sẽ tiếp tục hướng vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Nhưng đến năm 2020, khả năng lĩnh vực dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ phát huy được kinh nghiệm, kỹ năng quản lý hoặc đòi hỏi công nghệ cao mà Việt Nam chưa có thế mạnh như giao thông vận tải - viễn thông, tài chính – ngân hàng, khách sạn – du lịch, văn phòng địa ốc... sẽ là hướng cuốn hút các nhà đầu tư Hoa Kỳ

Hai là: Lượng vốn FDI của TNCs từ Hoa Kỳ vào Việt Nam sẽ gia tăng.

Hiện nay Việt Nam là thành viên thứ 150 của WTO và việc thực hiện các cam kết trong khuôn khổ thành viên WTO, Việt Nam sẽ được nhiều cơ hội trong hợp tác đầu tư. Theo thông lệ, khi đã trở thành một thành viên chính thức của WTO, Việt Nam có được sự hợp tác đầu tư bình đẳng như các thành viên khác, qua đó mở ra những cơ hội tiếp xúc, xúc tiến thương mại, đầu tư trong các quan hệ với các thành viên khác trong tổ chức này. Đồng thời, với

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/10/2023