Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về qui mô, tốc độ giữa các ngành, vùng.
Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp phân làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp qui luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng phát huy nội lực của nền kinh tế trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực.
Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, qui mô vốn nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả cao hay thấp....đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất phát triển ngành mới...do đó làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành.
Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị...của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
1.1.2.4 Tăng cường khoa học và công nghệ
Công nghệ là yếu tố trung tâm của công nghiệp hóa, đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học, công nghệ. Nếu trình độ công nghệ lạc hậu, quá trình CNH- HĐH sẽ gặp nhiều khó khăn và không bắt kịp được với trình độ công nghệ của thế giới là rào cản của quá trình hội nhập.
Có hai còn đường cơ bản để có công nghệ là: Nhập công nghệ và tự nghiên cứu, phát minh. Dù tiến hành bằng con đường nào thì yếu tố quyết định cũng là phải có tiền- đầu tư. Điều quan trọng là cần phải có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để
phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
Có thể bạn quan tâm!
- Đầu tư phát triển kinh tế Thủ đô Viêng Chăn giai đoạn 2007-2011 và tầm nhìn đến 2020 - 1
- Đầu tư phát triển kinh tế Thủ đô Viêng Chăn giai đoạn 2007-2011 và tầm nhìn đến 2020 - 2
- Tác Động Của Đầu Tư Phát Triển Kinh Tế Đến Tăng Trưởng Và Phát Triển
- Mối Quan Hệ Tác Động Qua Lại Giữa Hai Loại Nguồn Vốn
- Nội Dung Quản Lý Nhà Nước Về Đầu Tư Phát Triển Kinh Tế
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Hiệu Quả Của Hoạt Động Đầu Tư Phát Triển Kinh Tế Địa Phương
Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.
1.1.2.5 Tăng khả năng cạnh tranh và xuất khẩu của nền kinh tế
Đầu tư không chỉ nhằm gia tăng sản lượng mà cần chú trọng tới việc nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Khuyến khích đầu tư vào các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, khuyến khích phát triển công nghệ sạch.
Đầu tư và phát triển hợp lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, ưu đãi cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Đầu tư của nhà nước tập trung cho các khâu đòi hỏi vốn lớn có tác dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển như: Hệ thống cơ sở hạ tầng điện, đường... nghiên cứu khoa học.
1.1.2.6 Nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân
Mục tiêu của Đảng và Nhà nước Lào được cụ thể hóa trong Văn kiện đại hội Đảng là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy mà mục tiêu phát triển kinh tế luôn được gắn liền với đảm bảo an toàn xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng. Nhà nước ưu tiên đầu tư vào cơ sở hạ tầng, môi trường, chính sách tạo tiền đề phát triển kinh tế như các chương trình: Phổ cập giáo dục, xóa đói giảm nghèo, nước sạch nông thôn, phát triển hệ thống giao thông...do đó mà chất lượng cuộc sống của người dân đã được nâng cao, đặc biệt là góp phần phát triển kinh tế tạo ra bộ mặt nông thôn mới, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giàu và nghèo.
Đầu tư phát triển kinh tế là “cú huých” phá vỡ “cái vòng luẩn quẩn” của sự nghèo đói ở các nước đang phát triển
Vào những năm 50 của thế kỷ XX, Nurkse đã đưa ra lý thuyết về vòng luẩn quẩn ở các nước đang phát triển. Lý thuyết này chỉ ra rằng sự nghèo đói tự nó kéo dài mãi trong các vòng luẩn quẩn tăng cường lẫn nhau trên cả hai phía cung và cầu.
Về phía cung: Do thu nhập thấp tiêu dùng không thể chuyển sang tiết kiệm để thành vốn được. Việc thiếu vốn sẽ dẫn tới năng suất và năng suất tính trên đầu người thấp và duy trì mãi mức thu nhập thấp. Như vậy vòng tròn đó không thể chấm dứt, một nước nghèo, không có tăng trưởng là bởi vì vốn dĩ nó đã quá nghèo không thể tiết kiệm và đầu tư được.
Về phía cầu: Vì thu nhập thấp nên người dân phải hạn chế tiêu dùng làm cho quy mô thị trường là quá nhỏ không thể kích thích những người đầu tư có tiềm năng. Việc thiếu người đầu tư có nghĩa là năng suất thấp và thu nhập thấp tiếp diễn. Một đất nước nghèo là bởi vì vốn dĩ nó đã quá nghèo không thể tạo ra thị trường để thúc đẩy đầu tư.
Như vậy ở cả phía cung và phía cầu quá trình đó cứ lặp đi lặp lại mà không có được bước phát triển cao hơn, không thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo đói.
Điều này đòi hỏi các nước phát triển phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này cả về phía cung và phía cầu bằng việc tăng cường tiềm lực cho đầu tư. Đầu tư cả nguồn lực trong nước và ngoài nước sẽ cho phép tái sản xuất mở rộng để tăng tích lũy và đầu tư tiếp tục lại cho phép mở rộng năng lực sản suất nâng cao năng lực sử dụng các nguồn lực sản xuất. Đầu tư cho phép tạo ra năng lực sản xuất mới theo đó sẽ góp phần tăng thu nhập. Thu nhập cao sẽ cho phép và kích thích tiêu dùng. Nhờ đó mà nhu cầu về sản phẩm cũng được mở rộng tạo sức hút cho việc đầu tư tiếp theo. Như vậy, đầu tư với sự tác động cả về phía cung và phía cầu là nhân tố cần thiết để phá vỡ “cái vòng luẩn quẩn” của sự nghèo đói ở các nước đang phát triển tạo ra một vòng mở cho phép các nước đó tăng trưởng không ngừng.
1.2. Nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế
1.2.1. Bản chất của nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới
dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Như vậy nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác- Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã khẳng định: “Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích lũy cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên” [20].
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề có liên quan trực tiếp đến tích lũy, C.Mác đã chứng minh: Trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c+v+m) trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v+m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II, tức là:
(v+m)I > cII (1.1)
Hay nói cách khác
(c+v+m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II cần phải đảm bảo
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)II (1.2)
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng, từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ tăng. Như vậy theo quan điểm của C.Mác con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Nhưng tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết tiến hành bởi cùng một cá nhân hoặc doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích lũy nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích lũy chưa đủ. Khi đó, thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết khoản vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu (nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo quy trình, thủ tục) để huy động vốn thực hiện một dự án đầu tư nào đó từ các doanh nghiệp, hộ gia đình hay các cá nhân- người dư thừa vốn.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích lũy của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích lũy của nền kinh tế có thể ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai
CA = S – I (1.3)
Trong đó: CA (current account): tài khoản vãng lai
Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích lũy nội bộ của nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó, đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích lũy của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
1.2.2. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của Chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội, bao gồm:
* Nguồn vốn Nhà nước: Bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
- Nguồn vốn NSNN: Là nguồn chi của NSNN cho đầu tư. Đó chính là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các dự án lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, qui hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết
kiệm hơn. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, Nhà nước thực hiện khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực, khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH.
- Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước. Chủ yếu từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp Nhà nước. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư nguồn vốn này thường chiếm 14- 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp.
* Nguồn vốn của dân cư và tư nhân: Bao gồm phần tiết kiệm của dân cư và phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh thường chiếm khoảng 15% GDP. Với số lượng doanh nghiệp ngày càng lớn phần tích lũy của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Nguồn vốn này còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình, trình độ phát triển của đất nước, tập quán tiêu dùng của dân cư, chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.
1.2.3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại. Trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (là biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có các loại sau:
- Nguồn tài trợ phát triển chính thức: (ODF- Official Development Fianance) bao gồm nguồn Viện trợ phát triển chính thức (ODA- Official Development Assistance) và các hình thức tài trợ khác. Trong ODF thì ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu.
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác ODA mang tính ưu đãi cao như: Ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố tài trợ) đạt ít nhất 25%. ODA thường đi kèm với các ràng buộc về chính trị, xã hội tương đối khắt khe, đặc biệt là tính hiệu quả của nguồn vốn. Nguồn vốn ODA chủ yếu dành hỗ trợ các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo....
- Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế: Điều kiện ưu đãi của loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA và nó cũng không gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Nhưng thủ tục vay vốn tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, lãi suất cao lại là trở ngại với các nước nghèo. Do đó nó được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI- Foreign Directed Investment): Là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không làm phát sinh nợ cho nước tiếp nhận vốn. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần