lịch trên các phương tiện thông tin đại chúng mà khách du lịch có được những hiểu biết sâu sắc thêm về địa phương, về những phong tục tập quán, sản xuất cũng như nền văn hóa ẩm thực, âm nhạc, dân vũ tại địa phương, từ đó cuốn hút, hấp dẫn khách đến tham quan, du lịch.
Từ đó, việc phát triển du lịch sẽ đánh thức các ngành nghề truyền thống của các dân tộc, địa phương. Một số nơi đã gần như đánh mất nghề truyền thống của địa phương mình nhưng nhờ có sự ham hiểu biết, ham học hỏi, tò mò muốn tìm hiểu của khách du lịch mà nhiều làng nghề đã được khôi phục. Việc sống lại của các ngành nghề truyền thống này không chỉ góp phần làm tăng thu nhập cho người dân từ những sản phẩm họ làm ra mà còn giúp người dân địa phương biết yêu quí, trân trọng hơn nghề truyền thống của ông cha mình đã truyền lại cho thế hệ sau.
Cuối cùng, du lịch phát triển sẽ làm tăng tình đoàn kết, hữu nghị giữa các vùng, miền, quốc gia, dân tộc. Khách đến tham quan, du lịch là những người đến từ các nơi, các đất nước khác nhau. Từ sự tìm hiểu về địa phương du lịch sẽ làm cho khách du lịch thêm gắn bó, yêu mến mảnh đất mới lạ này hơn, từ đó tăng mối quan hệ đoàn kết, hữu hảo giữa người dân địa phương và du khách đến tham quan.
3. Phân loại các hình thức dịch vụ du lịch
* Xét theo hình thái vật chất, dịch vụ du lịch được phân thành hai loại:
- Hàng hóa: thức ăn, quà lưu niệm, vận chuyển…
- Phi hàng hóa: Hướng dẫn tham quan, tổ chức trò chơi, đưa đón…Phần phi hàng hóa thường được gọi là dịch vụ, hiểu theo nghĩa là “ Dịch vụ thuần túy”, không có hình thái vật chất. Dịch vụ thuần túy thường chiếm từ 2/3 đến 3/4 tổng giá trị sản phẩm du lịch.
* Xét theo cơ cấu tiêu dùng ( chi tiêu) của khách hàng, dịch vụ du lịch được chia thành hai loại:
- Dịch vụ cơ bản: dịch vụ về ăn uống, lưu trú, vận chuyển. Đó là những nhu cầu cơ bản, không thể thiếu được đối với khách hàng trong thời gian du lịch
- Dịch vụ bổ sung: dịch vụ về tham quan, giải trí, mua sắm hàng hóa; đó là những nhu cầu phải có nhưng không thật cần thiết lắm so với loại trên và không định lượng được.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng và giải pháp về việc thu hút khách du lịch tại tỉnh Hòa Bình trong những năm gần đây - 1
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Khả Năng Hấp Dẫn, Thu Hút Khách Du Lịch
- Uy Tín Của Doanh Nghiệp Kinh Doanh Dịch Vụ Du Lịch
- Đường Lối, Chính Sách Của Tỉnh Hoà Bình Nhằm Hướng Dẫn Du Lịch Phát Triển Ổn Định, An Toàn, Bền Vững
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
Quan hệ tỷ lệ giữa hai loại này rất quan trọng để phân tích chi tiêu của khách, chuẩn bị phục vụ của ngành du lịch và đặc biệt là để phân tích hiệu quả: tỷ trọng giữa dịch vụ cơ bản và dịch vụ bổ sung càng nhỏ, thì hiệu quả tổng hợp của kinh doanh du lịch càng cao.
* Xét theo tính chất tham gia vào dịch vụ du lịch người ta chia ra: dịch vụ trực tiếp và dịch vụ gián tiếp:
- Dịch vụ trực tiếp là dịch vụ do đơn vị trực tiếp làm
- Dịch vụ gián tiếp là không trực tiếp làm mà chỉ thực hiện chức năng môi giới.
Xuất phát từ sự tách rời giữa cung và cầu du lịch, trong ngành này đã hình thành một loại tổ chức tuy không trực tiếp phục vụ khách nhưng rất quan trọng đó là các tổ chức đại lý du lịch ( travel agency) với chức năng: Ngiên cứu thị trường; tổ chức hình thành các “sản phẩm du lịch”; tuyên truyền, quảng cáo; tổ chức giao dịch, ký kết hợp đồng đón tiếp và phục vụ khách du lịch
* Xét theo nội dung, dịch vụ du lịch phải thỏa mãn bốn yêu cầu của du khách: đi lại, nghỉ ngơi, vui chơi, nghiên cứu.
Đây là cách phân loại quan trọng nhất xuất phát từ bản chất hoạt động du lịch. Thật vậy, có thể định nghĩa ngành du lịch là một mạng lưới kinh
Du lịch= Đi lại+ Nghỉ ngơi+ Vui chơi+ Nghiên cứu
doanh rộng và tổng hợp phục vụ cho việc đi lại, nghỉ ngơi, ăn uống đón tiếp du khách đến nghiên cứu, tham quan. Hay có thể viết thành công thức mang tính chất diễn giải như sau:
(1)
II/ Những yếu tố tác động đến kinh doanh dịch vụ du lịch
1. Một số khái niệm thuộc lĩnh vực ngành du lịch
Theo Luật Du lịch được Quốc hội ban hành tháng 6 năm 2005, ta cần tìm hiểu về một số khái niệm về du lịch sau:
1. Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch.
2. Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử- văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
3. Tham quan là hoạt động của khách du lịch trong ngày tới thăm nơi có tài nguyên du lịch với mục đích tìm hiểu, thưởng thức những giá trị của tài nguyên du lịch.
4. Đô thị du lịch là đô thị có lợi thế phát triển du lịch và du lịch có vai trò quan trọng trong hoạt động của đô thị.
1 : Tài liệu tham khảo “Phát triển dịch vụ trong nền kinh tế thị trường” – NXB Thống kê ( năm 1994)
5. Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch.
6. Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không.
7. Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
8. Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các dịch vụ khác phục vụ khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ yếu.
9. Chương trình du lịch là lịch trình, các dịch vụ và giá bán chương trình được định trước cho chuyến đi của khách du lịch từ nơi xuất phát đến điểm kết thúc chuyến đi.
10. Lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch.
11. Hướng dẫn du lịch là hoạt động hướng dẫn cho khách du lịch theo chương trình du lịch .
Người thực hiện hoạt động hướng dẫn được gọi là hướng dẫn viên và được thanh toán cho dịch vụ hướng dẫn du lịch.
12. Phương tiện chuyên vận chuyển khách du lịch là phương tiện bảo đảm các điều kiện phục vụ khách du lịch, được sử dụng để vận chuyển khách du lịch theo chương trình du lịch.
13. Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.
14. Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai.
15. Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững.
16. Du lịch văn hoá là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.
2. Những yếu tố căn bản trong ngành kinh doanh dịch vụ du lịch
2.1. Đối tượng kinh doanh du lịch
Đối tượng của kinh doanh du lịch là những tiềm năng du lịch và sự thoả mãn nhu cầu của khách du lịch.
*Những tiềm năng du lịch được xem xét đến đó là tiềm năng du lịch tự nhiên và tiềm năng du lịch nhân văn. Những tiềm năng du lịch về tự nhiên được hiểu là những nguồn tài nguyên tự nhiên như khung cảnh thiên nhiên, khí hậu, động thực vật…Những tiềm năng du lịch về nhân văn là những giá trị văn hóa, lịch sử, những công trình sáng tạo của con người…Tất cả điều này có sức thu hút, hấp dẫn du khách và phục vụ cho nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu ham học hỏi của khách du lịch.
* Khách du lịch
a) Khái niệm về khách du lịch
Có thể đưa ra khái niệm về khách du lịch như sau: Khách du lịch là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến một nơi nào đó, quay trở lại với mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm công và nhận thù lao nơi đến; có thời gian lưu trú nơi đến từ 24 giờ trở lên (hoặc sử dụng dịch
vụ lưu trú qua đêm) và không vượt quá một khoảng thời gian quy định của từng quốc gia. Theo Luật Du lịch (số 44/2005/QH11 được thông qua tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XI, họp từ ngày 05 tháng 5 đến ngày 14 tháng 6 năm 2005) định nghĩa, thì: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
Cần phân biệt hai loại khách du lịch cơ bản:
- khách du lịch thuần tuý là khách du lịch mà chuyến đi của họ có mục đích chính là nâng cao hiểu biết tại nơi đến về các điều kiện, tài nguyên tự nhiên, kinh tế, văn hoá.
- Những người thực hiện chuyến đi vì một mục đích khác như công tác, tìm kiếm cơ hội làm ăn, hội họp…Trên đường đi hay tại nơi đến những người này sắp xếp thời gian cho việc tham quan nghỉ ngơi. Để nói lên được sự kết hợp đó, chuyến đi của họ gọi là du lịch công vụ, du lịch thể thao, du lịch thăm thân…
b) Phân loại khách du lịch
Tại nhiều nước trên thế giới thường có sự phân biệt giữa khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc tế. Ở nước ta việc phân chia khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa theo Luật Du lịch.
- Khách du lịch quốc tế: là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch. Khách quốc tế bao gồm:
+ Khách du lịch vào Việt Nam: là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch;
+ Khách du lịch ra nước ngoài: là công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
- Khách du lịch nội địa: là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong lãnh thổ Việt Nam.
c) Nhu cầu của khách du lịch
Nhu cầu du lịch được chia làm 3 loại:
- Nhu cầu thiết yếu: là nhu cầu cần thiết, bắt đuộc đối với tất cả mọi người. Nhu cầu này không phải là động cơ, mục đích của chuyến đi. Trong kinh doanh du lịch phải chú ý đến nhu cầu này để đáp ứng cho khách du lịch cụ thể là nhu cầu vận chuyển, lưu trú, ăn uống.
- Nhu cầu đặc trưng: là mục đích chuyến đi, chúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định tính hấp dẫn của sản phẩm du lịch cũng như việc lựa chọn sản phẩm du lịch. Đó là những nhu cầu về việc tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, chữa bệnh...
- Nhu cầu bổ sung: nhu cầu nảy sinh trong quá trình đi du lịch. Nhu cầu này không phải thiết yếu nhưng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện một chuyến hành trình hấp dẫn và thuận lợi.
2.2. Chủ thể kinh doanh du lịch
Chủ thể kinh doanh du lịch có thể được trung quy lại ở hai hình thức sau: Đơn vị kinh doanh lưu trú và cơ sở kinh doanh lữ hành.
Chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của ngành du lịch. Chủ thể kinh doanh du lịch mà cụ thể là đơn vị kinh doanh lưu trú và cơ sở kinh doanh lữ hành là nhân tố trực tiếp tác động tới chất lượng của dịch vụ du lịch. Đơn vị kinh doanh lưu trú và cơ sở kinh doanh lữ hành là chủ thể chính tạo ra: chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách du lịch, chất lượng cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch phục vụ khách, chất lượng của đội ngũ nhân viên, văn minh phục vụ đối với khách, tính đa dạng và phong phú của sản phẩm du lịch.
Chủ thể kinh doanh du lịch kinh doanh những loại hình kinh doanh chính sau:
-Kinh doanh lữ hành
-Kinh doanh lưu trú du lịch
-Kinh doanh vận chuyển khách du lịch
-Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch
-Kinh doanh dịch vụ du lịch khác.
Như vậy có thể thấy rằng chủ thể kinh doanh du lịch có một vị trí rất quan trọng, vai trò cốt lõi trong việc phát triển ngành dịch vụ du lịch nói chung.
2.3. Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là tất cả những cái nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến hành trình du lịch.
Sản phẩm du lịch được hợp thành từ nhiều bộ phận khác nhau, như: dịch vụ vận chuyển, lưu trú, vui chơi, giải trí...
Sản phẩm du lịch có những đặc điểm sau đây:
-Sản phẩm du lịch chủ yếu mang tính chất vô hình, dịch vụ và tài nguyên chiếm 80% - 90%.
- Việc tạo ra và tiêu thụ sản phẩm du lịch thường có sự trùng lặp về không gian và thời gian. Do đó, để thực hiện quá trình tiêu thụ sản phẩm, người mua hàng được đưa đến nơi sản xuất và tiêu thụ tại chỗ. Do đặc điểm nay, khách du lịch không thể thấy sản phẩm du lịch trước khi mua.
- Việc tiêu thụ sản phẩm có tính thời vụ. Thông thường các hoạt động du lịch có liên quan đến hoạt động ngoài trời, tức là phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Do đó, việc tiêu dùng dịch vụ càng mang tính thời vụ rõ nét.