Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng nền văn hoá tiên tiến mang đậm bản sắc dân tộc Lào là nền tảng.
Thứ tư, đó là một hệ thống tổ chức bao gồm các thành viên đang được đổi mới mạnh mẽ từ tổ chức nhiệm vụ, chức năng đến phương thức hoạt động; từ mối quan hệ giữa các thành viên trong hệ thống đến mối quan hệ của hệ thống đó với xã hội dân sự đang hình thành và phát triển ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Hệ thống này bao gồm: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Mặt trận Xây dựng đất nước Lào, Công đoàn, Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào, Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Lào, và Hội Cựu chiến binh Lào.
Tổng hợp các quan điểm và cách tiếp cận nêu trên, có thể chỉ ra các nội dung cơ bản của hệ thống chính trị ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào như sau:
+ Là một hệ thống thống nhất các thiết chế bao gồm Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào của dân, do dân, và vì dân; Mặt trận Xây dựng đất nước Lào và các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Là hình thức cơ bản tổ chức của chính trị, trong đó sự vận hành và thực hiện quyền lực theo một cơ chế chủ đạo là: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ".
+ Là hình thức tổ chức chính trị dân chủ nhằm bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân, thực hiện mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.1.1.2 Khái niệm đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị
Cán bộ là một danh từ được du nhập vào Việt Nam và Lào từ nhiều thập kỷ qua, nhất là từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo đất nước trong đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đặc biệt ban đầu danh từ cán bộ được sử dụng nhiều trong quân đội để phân biệt giữa những người chiến sĩ v ới người cán bộ chỉ huy từ cấp tiểu
Có thể bạn quan tâm!
- Đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay - 2
- Tình Hình Nghiên Cứu Vấn Đề Ở Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Một Số Khái Niệm Về Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Lãnh Đạo Của Hệ Thống Chính Trị Ở Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Các Quan Điểm Và Lý Luận Cơ Bản Về Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ
- Quan Điểm Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Về Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Lãnh Đạo
- Chương Tr Ình, Nội Dung, Phương Thức Và Đánh Giá Kết Quả Đào Tạo Cán Bộ Lãnh Đạo
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
đội phó trở lên. Sau đó, từ cán bộ được dùng để chỉ tất cả những người thoát ly gia đình đi hoạt động kháng chiến chống đế quốc để phân biệt họ với những người khác.
Cán bộ là một danh xưng rất đẹp đầy niềm tự hào vinh dự trong nhân dân các bộ tộc Lào. Ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, từ cán bộ là muốn chỉ một lớp người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập tự do cho dân tộc.
Hiện nay, hiểu một cách chung nhất, cán bộ là những người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn nhất định trong các cơ quan Nhà nước, Đảng và đoàn thể, tức là những người làm công tác có chức trách trong một cơ quan, một tổ chức trong hệ thống chính trị [92, tr.109].
Điều đó cũng có nghĩa cán bộ bao gồm tất cả những người trong biên chế nhà nước có bậc lương, làm việc trong cơ quan Đảng, đoàn thể chính trị - xã hội, cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân.
Từ cách hiểu đó cho thấy, khái niệm cán bộ có 4 đặc trưng cơ bản:
- Cán bộ được sự uỷ thác của Nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị… và lấy danh nghĩa của Nhà nước và các tổ chức đó để hoạt động.
- Cán bộ là người giữ một chức vụ, trọng trách nào đó trong hệ thống chính trị nói chung.
- Là người, trước khi được giao trọng trách phải qua bầu cử, tuyển chọn, đề bạt hoặc bổ nhiệm.
- Là người được hưởng chế độ đãi ngộ trên cơ sở căn cứ và chất lượng
lao động của họ.
Với 4 nghĩa này thì những người cán bộ có thể là người lãnh đạo, quản lý hoặc nhà chuyên môn, nhà khoa học, có thể họ là công chức, viên chức làm việc hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước, cán bộ được hình thành từ dân cử, bầu cử, tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm.
Khái niệm cán bộ ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay được hiểu: Đó là các công dân Lào trong biên chế nhà nước được hưởng lợi từ ngân sách, bao gồm các đối tượng:
Một là, những người do bầu cử đảm nhiệm công việc theo nhiệm kỳ trong cơ quan, tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Hai là, những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên, làm việc trong cơ quan, tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, theo từ điển tiếng Lào xuất bản năm 1986, cán bộ cũng đồng nghĩa với công chức, nhà chức trách. Còn quan niệm về công chức thì được thể hiện rõ trong đối tượng của Nghị định 171 (1993), nay là Nghị định 82 (2003) của Thủ tướng Chính phủ về quy chế công chức Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Theo đó, tất cả những người làm việc biên chế của các tổ chức Nhà nước, Đảng, quần chúng đều được gọi là công chức.
Từ những điều nói trên cho phép chúng ta khẳng định rằng: cán bộ là một phạm trù dùng để chỉ tất cả những người công tác ở các cơ quan tổ chức của Đảng và Nhà nước, các đoàn thể, lực lượng vũ trang, nằm trong biên chế, cả những người giữ chức vụ lẫn những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ không giữ chức vụ.
Như chúng ta đã biết rằng trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả trong hệ thống chính trị Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay được phân thành nhiều cấp và nhiều bộ phận khác nhau. Nếu như ở mỗi cấp mỗi bộ phận trong các hệ thống tổ chức đều có một tập thể lãnh đạo thì những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong các tập thể ấy thường được gọi là cán bộ lãnh đạo.
Thời gian gần đây, trong một số văn kiện của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã dần dần hình thành sự phân chia các loại cán bộ trong hệ thống chính trị và trong xã hội, tập trung bao gồm một số loại chủ yếu: cán bộ lãnh
đạo chính trị, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, cán bộ lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế không có sự tồn tại riêng biệt các loại cán bộ cụ thể như vậy. Bởi cán bộ lãnh đạo đều phải thực hiện các công việc quản lý, cán bộ quản lý cũng phải thực hiện các công việc lãnh đạo. Lãnh đạo và quản lý là hai khái niệm có những điểm giống và khác nhau.
Lãnh đạo là một khái niệm chỉ sự hoạt động của chủ thể lãnh đạo, mà trong hoạt động đó không có sử dụng tới quyền lực mang tính áp đặt, cưỡng chế. "Khái niệm lãnh đạo chỉ sự ảnh hưởng có tính xác định đối với hành vi của một cộng đồng, tập thể hay cá nhân nhưng sự ảnh hưởng này không thông qua sự cưỡng chế, không mang tính ép buộc. Lãnh đạo là khái niệm có đặc điểm là tính định hướng, tính thuyết phục. Tính định hướng này thể hiện trước hết ở sự xác định được ý nghĩa và giá trị chung được cả cộng đồng hay tập thể chia sẻ và đồng thuận và do vậy mang tính động viên, dẫn dắt hành động cho cả cộng đồng, tập thể" [36, tr.71]. Hồ Chí Minh đã nêu rõ khái niệm lãnh đạo như sau: "lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và làm cho tốt" [69, tr.222]. Còn trong Từ điển tiếng Việt, khái niệm lãnh đạo được cho là "đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện" [92, tr.544]. Các nhà nghiên cứu về Lãnh đạo học trên thế giới cũng đã từng khẳng định rằng: "lãnh đạo là khả năng giành được sự tin tưởng và ủng hộ từ những người cần thiết để thực hiện thành công các mục tiêu của tổ chức"; ở góc độ khác, lãnh đạo còn được hiểu là "nghệ thuật gây ảnh hưởng đến người khác thông qua biện pháp thuyết phục hoặc làm gương để tuân thủ cùng một chuỗi mô hình hành động" [21, tr.20].
Quản lý là một khái niệm gắn với quyền lực ở một mức độ nhất định. Trong Từ điển tiếng Việt có nêu: Quản lý là "tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định". Khái niệm này tương đồng với các khái niệm chỉ đạo, điều hành, điều khiển. Khái niệm quản lý ở đây là muốn nói đến
quản lý con người, quản lý xã hội và biểu hiện cụ thể nhất là ở quản lý nhà nước. Khái niệm chung nhất về quản lý nhà nước được hiểu cô đọng ở việc "tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội theo pháp luật" [92, tr.800 - 801]. Điều đó cho thấy, quản lý là sự tác động hướng đích, có mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý với đối tượng quản lý. Đây là mối quan hệ giữa mệnh lệnh và phục tùng.
Lãnh đạo và quản lý là hai khái niệm khác nhau nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình hoạt động của đội ngũ cán bộ có chức trách nhất định trong hệ thống chính trị. Khi nói đến cán bộ lãnh đạo người ta không coi họ chỉ là người thực hiện chức năng lãnh đạo đơn thuần mà còn nhìn nhận họ là những người có trách nhiệm cả về phương diện quản lý. Ngoài ra, việc xác định cán bộ lãnh đạo không những phải gắn với một hệ thống tổ chức nhất định mà còn phải căn cứ vào chức danh cụ thể của từng người, bởi vì trong thực tế một số cán bộ "ở cương vị này, trong tổ chức này họ là cán bộ lãnh đạo, nhưng trong mối quan hệ khác, vị trí khác, thì lại không phải là cán bộ lãnh đạo" [47, tr.36]. Trước đây, V.I.Lênin đã từng chỉ rõ có hai hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý đối với người đảng viên của Đảng Bônsêvich Nga đang hoạt động trong bộ máy nhà nước Nga lúc bấy giờ. Theo Lênin, những cán bộ đảng viên trong bộ máy nhà nước cần phải hoạt động vừa với tư cách là người đại diện cho Đảng thực hiện việc tuyên truyền, vận động nhân dân đi theo Đảng, tức là hoạt động "lãnh đạo", vừa với tư cách là người đại diện cho chính quyền, đại biểu của nhân dân, thực hiện công việc quản lý nhà nước, tức là hoạt động "quản lý", "điều khiển", "điều hành" đất nước. Lênin đã viết: "Người cán bộ ấy phải nhớ rằng anh ta không những là người tuyên truyền bằng lời nói, không những phải giúp đỡ những tầng lớp nhân dân mê muội nhất; đó là nhiệm vụ chủ yếu của anh ta và không làm như vậy anh ta sẽ không còn là người cán bộ của đảng, không làm như vậy anh ta không thể tự coi mình là người cộng sản được. Nhưng ngoài ra,
anh ta phải là người đại diện chính quyền xô viết….người đại diện cho đảng nắm chính quyền hiện đang thông qua một bộ phận giai cấp vô sản mà điều khiển toàn bộ nước Nga" [65, tr.181].
Do vậy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị mà luận án này nghiên cứu là muốn nói tới đội ngũ cán bộ có những chức vụ nhất định trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Đoàn thể ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân các; họ vừa có hoạt động lãnh đạo, vừa có hoạt động quản lý trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tức là các cán bộ "lãnh đạo - quản lý", và được gọi chung là cán bộ lãnh đạo, tập trung vào đội ngũ cán bộ trung, cao cấp của Đảng và Nhà nước ở Lào.
2.1.2 Khái niệm đào tạo cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
Đào tạo là khái niệm được xác định như là quá trình biến đổi hành vi con người một cách có hệ thống thông qua việc học tập và rèn luyện. Việc học tập này có được là kết quả của việc giáo dục, hướng dẫn, phát triển, và lĩnh hội kinh nghiệm một cách có kế hoạch. Đào tạo được xác định như là một quá trình cung cấp và tạo dựng khả năng làm việc cho người học, hoặc nói cách khác là huấn luyện và giáo dục một cách có kế hoạch, có sự kết hợp trong các lĩnh v ực khoa học chuyên ngành như: chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, hành chính hay các lĩnh vực khác nhằm nâng cao kết quả thực hiện công việc của cá nhân, tổ chức và giúp họ hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu công tác.
Trong Từ điển tiếng Việt, khái niệm đào tạo được cho là "làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" [92, tr.289].
Còn trong Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam xuất bản năm 1995 (tập 1) đưa ra khái niệm đào tạo: Đào tạo là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững trí thức, kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc
sống và khả năng nhận một sự nghiệp phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh loài người.
Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường, gắn với giáo dục về đạo đức nhân cách. Kết quả và trình độ (trình độ học vấn) của người học còn do việc tự đào tạo, thể hiện ra ở việc tự học và tự đúc rút kinh nghiệm từ các hoạt động thực tiễn của người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào tạo thì đào tạo mới có hiệu quả cao.
Đào tạo là công việc thường xuyên của một quốc gia, trong lịch sử thông qua giáo dục, đào tạo mà loài người luôn phải phát triển không ngừng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, khoa học - kỹ thuật, thương mại, văn hoá, chính trị… Thông qua đào tạo mà tri thức con người được bảo lưu và ngày càng mở rộng.
Khái niệm đào tạo cán bộ trong luận án này được hiểu là quá trình đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Trong công tác đào tạo luôn gắn liền với công việc bồi dưỡng. Đào tạo, bồi dưỡng chính là việc tổ chức những cơ hội cho người ta học tập, nhằm giúp tổ chức đạt mục tiêu của mình bằng việc tăng cường năng lực thực hiện công việc cho cán bộ. Đào tạo, bồi dưỡng trên cơ sở năng lực thực hiện công việc giúp cho cán bộ làm việc hiệu quả hơn, cho phép họ sử dụng tốt hơn các khả năng, tiềm năng vốn có. Với quan niệm đó, ta có thể xem việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhằm phát triển năng lực công tác và nâng cao năng lực thực hiện công việc thực tế, làm quen với công việc mới do thuyên chuyển đề bạt, thay đổi nhiệm vụ và đảm bảo cho họ có đầy đủ khả năng làm việc một cách có chất lượng và hiệu quả; giúp cán bộ luôn phát triển để có thể đáp ứng được nhu cầu nhân lực trong tương lai của tổ chức.
Đào tạo và bồi dưỡng về cơ bản có nghĩa gi ống nhau. Đào tạo theo nghĩa r ộng không chỉ bao hàm đào tạo trong và ngoài nhà trường với các
chủ thể thực hiện khác nhau, mà còn bao hàm cả việc bồi dưỡng. Đào tạo hiểu theo nghĩa hẹp đó là quá trình đào tạo trong nhà trường với việc truyền thụ kiến thức về các lĩnh v ực chuyên môn, nghề nghiệp nhất định. Bồi dưỡng được hiểu chủ yếu là cung cấp, bổ sung những kiến thức cần thiết, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn nhất định. Nhưng về cơ bản đào tạo và bồi dưỡng có những nét chung. Đó là quá trình làm biến đổi hành vi của con người một cách có hệ thống thông qua việc dạy và học. Trong thực tế, hai hoạt động đào tạo và bồi dưỡng gắn kết với nhau như là một chỉnh thể, khi ta đề cập đến công tác đào tạo là đã bao hàm cả công tác bồi dưỡng.
Khái niệm đào tạo cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị trong luận án này là nói đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ giữ những chức vụ nhất định trong hệ thống chính trị, cụ thể là ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, với các hoạt hệng đào tạo cụ thể, thể hiện chủ yếu ở nội dung, chương trình và phương thức đào tạo nhằm đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng cán bộ trong thực thi quyền lực chính trị của nhân dân. Có thể nói, hoạt động của cán bộ lãnh đạo cũng được coi như một nghề nghiệp. Công việc lãnh đạo nói chung có tầm quan trọng đặc biệt do tác động chính trị, kinh tế, xã hội của nó. Đây là công
việc hết sức khó khăn và phức tạp, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo không chỉ hiểu biết được bản chất và tính quy luật của các hiện tượng, quá trình chính trị, kinh tế, xã hội, không chỉ có ý chí và lòng nhiệt thành mà còn phải được trang bị kỹ lưỡng về tri thức và các nghiệp vụ công tác đó. Hiện nay, số đông cán bộ lãnh đạo trung cao cấp ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào vốn là những cán bộ đã được đào tạo về nghiệp vụ, chuyên môn nhưng còn ít được đào tạo, bồi dưỡng có bài bản về lý luận chính trị - hành chính, trong đó đặc biệt là nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý.
Đào tạo cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào mà luận án nghiên cứu được tập trung vào công tác đào tạo