Tiêu Chuẩn, Nhiệm Vụ Của Giảng Viên Trường Chính Trị Cấp Tỉnh

xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lí viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập”. VTVL có thể có một hoặc nhiều công việc, có tính thường xuyên, liên tục chứ không bao gồm những công việc thời vụ, tạm thời. Theo Điều 23 Luật Viên chức năm 2010, để được tuyển dụng vào VTVL thì phải thông qua một trong hai phương thức tuyển dụng viên chức: thi tuyển hoặc xét tuyển.

Thứ ba, là những người làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Đơn vị sự nghiệp công lập theo khoản 1 Điều 9 Luật Viên chức năm 2010 được hiểu là “…tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước”. Đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm:

- Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ);

- Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ).

Thứ tư, thời gian làm việc của viên chức được tính kể từ khi được tuyển dụng. Hợp đồng làm việc có hiệu lực cho đến khi chấm dứt hợp đồng làm việc hoặc đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ Luật Lao động.

Thứ năm, làm việc theo chế độ Hợp đồng làm việc và hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Theo đó, giữa viên chức và bên tuyển dụng có sự thỏa thuận về VTVL, tiền lương, chế độ đãi ngộ, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên… Hợp đồng làm việc là cơ sở pháp lý để sau này xử lý các việc liên quan đến việc vi phạm quyền hay các vấn đề khác phát sinh giữa hai bên. Lương của Viên chức được nhận từ quỹ của Đơn vị sự nghiệp công lập nơi họ làm việc chứ không phải hoàn toàn từ Nhà nước. Do vậy, tiền lương mà viên chức nhận được phụ thuộc vào sự thỏa thuận của viên chức và bên tuyển dụng[21].

Có thể thấy viên chức là những người được tuyển dụng qua thi tuyển hoặc xét

tuyển căn cứ vào nhu cầu, VTVL, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập, do người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ thực hiện, làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là những người được bổ nhiệm vào một chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý (trừ các chức vụ quy định là công chức), thực hiện các công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu về năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các lĩnh vực: giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, thể dục thể thao, du lịch, lao động - thương binh và xã hội, thông tin - truyền thông, tài nguyên môi trường, dịch vụ... Những hoạt động này không nhân danh quyền lực chính trị hoặc quyền lực công, không phải là các hoạt động quản lý nhà nước mà chỉ thuần tuý mang tính nghề nghiệp gắn với nghiệp vụ, chuyên môn.

Về phân loại viên chức, theo Điều 3 Nghị định 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, việc phân loại viên chức theo 02 tiêu chí:

Một là, theo chức trách, nhiệm vụ, gồm: Viên chức quản lý và viên chức không giữ chức vụ quản lý. Trong đó, viên chức quản lý là người được bổ nhiệm giữ chức vụ quản lý có thời hạn, chịu trách nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện một hoặc một số công việc trong đơn vị sự nghiệp công lập nhưng không phải là công chức và được hưởng phụ cấp chức vụ quản lý.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.

Hai là, theo trình độ đào tạo, gồm: Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp có yêu cầu trình độ đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng và trung cấp.

Trong khi trước đây, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức quy định phân loại viên chức theo VTVL (viên chức quản lý, viên chức không giữ chức vụ quản lý) và theo chức danh nghề nghiệp (viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng I, hạng II, hạng III và hạng IV).

Đánh giá viên chức tại Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên - 4

Như vậy, hiện nay, viên chức không còn được phân loại theo VTVL và các hạng nữa mà thay vào đó là theo chức trách, nhiệm vụ và trình độ đào tạo. Nhìn chung, đội ngũ viên chức có vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định về chính

trị và sự phát triển của xã hội của nước ta cũng như của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Bởi lẽ, họ là những người trực tiếp thực hiện các công việc và nhiệm vụ có yêu cầu về kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các lĩnh vực: Giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, thể thao, du lịch, lao động - thương binh - xã hội, thông tin - truyền thông, tài nguyên, môi trường, dịch vụ. Trong xã hội, viên chức thường được gọi với các chức danh như: giáo viên, bác sĩ, giảng viên....

1.1.2. Giảng viên

Trước khi tìm hiểu về khái niệm giảng viên, cần nhận thức rõ về khái niệm “nhà giáo”. Từ trong lịch sử và nhận thức cũng như đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam, nhà giáo là một chức danh xã hội rất được coi trọng. Theo Từ điển Tiếng Việt, nhà giáo là “những người làm nghề dạy học”[41, tr.516]. Tại Điều 66 của Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2019 cũng đưa ra định nghĩa tương đối đầy đủ về nhà giáo dưới góc độ pháp lý, theo đó: “Nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong cơ sở giáo dục, trừ cơ sở giáo dục quy định tại điểm c khoản 1 Điều 65 của Luật này”[31]. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục khác, giảng dạy trình độ sơ cấp, trung cấp gọi là giáo viên; nhà giáo giảng dạy từ trình độ cao đẳng trở lên gọi là giảng viên” [31]. Như vậy, có thể thấy, giảng viên là khái niệm để chỉ những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu trong các học viện, các trường đại học và cao đẳng.

Theo quan niệm của giáo dục hiện đại, khái niệm “giảng viên” cũng như vai trò của đội ngũ này hiện đã được mở rộng hơn, theo đó giảng viên không chỉ đơn thuần là những người làm công tác giảng dạy mà còn thực hiện nhiều vai trò trong quá trình đào tạo, cụ thể:

Thứ nhất, giảng viên có vai trò là người thúc đẩy học viên, sinh viên trong học tập và nghiên cứu. Đây là vai trò rất quan trọng của giảng viên, phù hợp với nguyên tắc lấy người học làm trung tâm, trong đó nhiệm vụ của giảng viên là gợi mở, khuyến khích, giúp đỡ, thúc đẩy học viên, sinh viên từng bước tự nhận thức, từ đó rút ra

phương pháp và những kiến thức cần thiết áp dụng trong thực tiễn, giải quyết công việc hiệu quả. Để làm tốt vai trò này, giảng viên cần phải có phương pháp tốt, nhạy bén nghề nghiệp, nắm bắt được khả năng, đặc điểm tâm lý, điểm mạnh cũng như hạn chế của học viên, sinh viên, từ đó tìm ra những điểm mấu chốt, khơi gợi, thúc đẩy mong muốn, khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học, hình thành kỹ năng xử lý vấn đề cho họ.

Thứ hai, giảng viên có vai trò của người làm tổ chức. Điều này có nghĩa là giảng viên cần tổ chức tốt từng khâu cũng như toàn bộ quá trình giảng dạy của mình, từ xác định nhu cầu, thiết kế đào tạo đến chuẩn bị bài giảng và tiến hành công việc giảng dạy. Tổ chức quá trình giảng dạy hiệu quả, giảng viên phải chú ý đến tính tương tác giữa người dạy và người học, trong đó người học được coi là trung tâm. Để đảm bảo thực hiện tốt vai trò này, giảng viên phải có phương pháp làm việc khoa học, có tinh thần tận tụy, phong cách sư phạm, thái độ cởi mở, sẵn sàng trao đổi, lắng nghe ý kiến của người học. Trong vai trò của người tổ chức, giảng viên cần hội tụ đủ ba yếu tố, đó là: Kiến thức, phương pháp, đạo đức nghề nghiệp được kết hợp nhuần nhuyễn, đạt tới trình độ cao.

Để đảm bảo chất lượng của đội ngũ giảng viên, pháp luật Việt Nam cũng đưa ra quy định về trình độ đào tạo đối với đội ngũ này, theo đó giảng viên ít nhất là có trình độ từ đại học trở lên. Trong quá trình phát triển, yêu cầu đặt ra với giảng viên là phải từng bước chuẩn hoá để đạt trình độ văn bằng thạc sĩ, tiến sỹ. Do đặc thù của đối tượng học viên, giảng viên được yêu cầu là tầng lớp tri thức có năng lực chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm để tham gia giảng dạy và nghiên cứu.

1.2. Giảng viên trường chính trị cấp tỉnh

1.2.1. Trường chính trị cấp tỉnh

Tại Việt Nam, Trường Chính trị có tiền thân là các trường Đảng, trường Hành chính. Đây là những trường đào tạo và huấn luyện cán bộ cho Đảng Cộng sản Việt Nam ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trường Đảng được thành lập sớm nhất vào năm 1945. Sau đó là các trường Hành chính. Năm 1995 trường Đảng và trường Hành chính được sáp nhập theo quyết định của Ban Bí thư và có tên gọi là

trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương[5]. Về địa vị pháp lý, Trường Chính trị là cơ sở đào tạo cán bộ duy nhất ở cấp tỉnh. Trường được đánh giá tương đương với trường Đại học. Tốt nghiệp qua trường Chính trị là điều kiện quan trọng để quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ[1].

Hiện nay, theo quy định của Ban Bí thư Trung ương, Trường Chính trị ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, CBCC, viên chức ở địa phương về trình độ LLCT - hành chính; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về một số lĩnh vực khác; tham gia tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương…

1.2.2. Giảng viên trường chính trị cấp tỉnh

Trong các quy định hiện hành về trường chính trị tỉnh, thành phố, giảng viên trường chính trị được hiểu là viên chức chuyên môn giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng do trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đảm nhận[16]. Đây là lực lượng nòng cốt trong thực hiện các nhiệm vụ của trường chính trị.

Nhìn chung, đội ngũ giảng viên trường chính trị được hiểu là tập thể giảng viên trong các trường chính trị thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu tổng kết thực tiễn. Đội ngũ giảng viên trường chính trị được xác lập về mặt số lượng gồm các giảng viên tham gia giảng dạy (một phần hoặc toàn bộ môn học trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng mà Nhà trường đảm nhận), tham gia nghiên cứu, tổng kết thực tiễn; được xác lập về mặt cơ cấu gồm: cơ cấu theo chuyên môn giảng dạy, trình độ đào tạo, giới tính, độ tuổi…; được xác lập về mặt chất lượng trên các mặt phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, kiến thức năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm, năng lực nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tiễn.

Từ những phân tích trên về giảng viên và giảng viên trường chính trị nói chung, có thể hiểu giảng viên trường chính trị cấp tỉnh ở nước ta là những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy về LLCT tại trường chính trị ở các tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương. Họ là những giảng viên trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo, cung cấp những tri thức khoa học, nhằm hình thành cho người học thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, thông qua việc truyền thụ những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở đó, giúp cho người học có tư duy khoa học, đạo đức cách mạng, năng lực sáng tạo trong hoạt động thực tiễn.

1.2.3. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ của giảng viên trường chính trị cấp tỉnh

1.2.3.1. Các tiêu chuẩn đối với giảng viên trường chính trị cấp tỉnh

Giảng viên trường chính trị cấp tỉnh phải đáp ứng được các tiêu chuẩn chung, đó là: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần yêu nước, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có trình độ lý luận chính trị theo quy định; có trình độ đại học (hệ chính quy) trở lên, về khoa học chính trị, khoa học hành chính hoặc khoa học xã hội và nhân văn. Có thái độ trung thực, khiêm tốn, giản dị; tâm huyết với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng và Nhà nước. Có năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học; có đủ sức khỏe hoàn thành nhiệm vụ và có lý lịch bản thân rõ ràng [50].

Bên cạnh đó, giảng viên trường chính trị cấp tỉnh giảng dạy chủ yếu là chương trình trung cấp lý luận chính trị, do vậy, họ phải đáp ứng được các tiêu chuẩn để các tiêu chuẩn riêng để đảm nhận nhiệm vụ này. Đó là:

Đối với giảng viên: Là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; có bằng tốt nghiệp Trung cấp lý luận chính trị hoặc Trung cấp lý luận chính trị - hành chính trở lên; có bằng tốt nghiệp đại học xếp loại khá trở lên, chuyên ngành phù hợp với chuyên môn giảng dạy; có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm hoặc phương pháp giảng dạy tích cực (trừ trường hợp đã có bằng tốt nghiệp các trường sư phạm); có chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên; sử dụng thành thạo các phương pháp, phương tiện dạy học hiện đại.

Đối với giảng viên chính: Đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể của giảng viên; có bằng thạc sĩ trở lên phù hợp với chuyên môn giảng dạy, có trình độ Cao cấp lý luận

chính trị; có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có khả năng xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu phục vụ đào tạo, bồi dưỡng; chủ trì được các đề tài, đề án cấp cơ sở trở lên.

Đối với giảng viên cao cấp: Đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể của giảng viên chính; có bằng tiến sĩ phù hợp với chuyên môn giảng dạy, có trình độ Cao cấp lý luận chính trị; chủ trì được các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên phục vụ đào tạo, bồi dưỡng và sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; có kinh nghiệm và khả năng tổ chức, chỉ đao tập thể giảng viên, học viên trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn [50].

1.2.3.2. Nhiệm vụ của giảng viên trường chính trị cấp tỉnh

Giảng viên trường chính trị cấp tỉnh phải thực hiện những nhiệm vụ chung, đó là: Giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng do nhà trường đảm nhận; nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập; phát triển lý luận; góp phần xây dựng đảng, hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa

- xã hội ở địa phương; học tập nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện đạo đức, lối sống; nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm; đi nghiên cứu thực tế theo quy định và tham gia các công tác khác do cơ quan, tổ chức phân công [50].

Ngoài ra, đối với mỗi ngạch giảng viên đều có những nhiệm vụ cụ thể cho giảng viên, giảng viên chính và giảng viên cao cấp.

Như vậy, riêng đối với giảng viên trường chính trị cấp tỉnh có những quy định đặc thù về tiêu chuẩn và nhiệm vụ khác với các giảng viên tại các cơ sở giáo dục công lập. Bên cạnh đó, về mặt biên chế, nhân sự lại do tỉnh ủy, thành ủy tại mỗi địa phương quy định và quản lý. Chính những sự khác biệt này nên việc đánh giá đối với giảng viên trường chính trị cấp tỉnh đòi hỏi phải có những quy định và tiêu chuẩn riêng.

1.3. Đánh giá giảng viên trường chính trị cấp tỉnh

1.3.1. Đánh giá

Về lý thuyết, đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về

kết quả của công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những giải pháp thích hợp để cải tạo thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc.

Còn dưới góc độ của quản lý, theo Từ điển Tiếng Việt, “đánh giá trong quản lý là nhận xét, bình phẩm về giá trị, và sử dụng nhận xét đó cho mục đích quản lý nào đó nhằm đạt mục tiêu của tổ chức[42].

1.3.2. Đánh giá giảng viên trường chính trị cấp tỉnh

Hiện tại chưa có khái niệm chính thức về đánh giá đối với giảng viên trường chính trị cấp tỉnh, tuy nhiên trong nghiên cứu đã có nhiều học giả đưa ra những khái niệm cơ bản về đánh giá đội ngũ CBCC nói chung với góc độ là những cá nhân thực thi công việc trong cơ quan tổ chức nhà nước, chẳng hạn theo tác giả Tô Tử Hạ, đánh giá công chức được xác định là một “biện pháp quản lý công chức thông qua việc kiểm định các chỉ số nói lên sự làm việc, cống hiến của người công chức”, hay là “biện pháp nhằm xác định năng lực, kỹ năng, sự tham gia và hiệu quả làm việc của từng con người cụ thể trong cơ quan[15]. Qua khái niệm này, có thể thấy tác giả Tô Tử Hạ đã chỉ ra được một số dấu hiệu cơ bản của đánh giá công chức như đây là biện pháp quản lý công chức, nội dung đánh giá là năng lực, kỹ năng, sự tham gia và hiệu quả làm việc của từng công chức.

Còn tại Điều 55, Luật CBCC năm 2008 quy định: “Đánh giá công chức để làm rõ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Kết quả đánh giá là căn cứ để bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, ĐTBD, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với công chức”.

Qui định của Luật CBCC về đánh giá công chức đã đề cập đến nội dung đánh giá cũng như mục đích của đánh giá công chức. Cùng với quy hoạch, tuyển dụng, khen thưởng, kỷ luật, chế độ tiền lương và đãi ngộ… đánh giá công chức là một khâu, một nội dung căn bản, quan trọng trong công tác quản lý, phát triển đội ngũ công chức, được tiến hành thường kỳ hoặc trước khi đề bạt, chuyển công tác đối với công chức.

Từ những khái niệm và quy định trên, có thể đưa ra khái niệm về đánh giá giảng

Xem tất cả 138 trang.

Ngày đăng: 22/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí