Đánh giá kết quả trồng rừng phòng hộ giai đoạn 2011 - 2015 tại huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang - 2


ĐẶT VẤN ĐỀ

Tỉnh Hà Giang có đặc điểm địa lý, địa hình và điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù, nên ngành lâm nghiệp và tài nguyên rừng của tỉnh có ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc sống và sinh kế của người dân trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Với phần lớn diện tích đất tự nhiên (788.437 ha chiếm 88,63%) là đất dốc từ 15 độ trở lên, nên nếu thiếu rừng cây che phủ, điều kiện sinh thái và sản xuất nông nghiệp của tỉnh sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng với mức độ rủi ro mùa màng cao. Điều đó cho thấy, tự thân ngành lâm nghiệp mà yếu tố chủ đạo là rừng trở thành “trụ đỡ” cho nền nông nghiệp, đồng thời còn là mái nhà sinh thái của vùng thượng nguồn, nơi tiềm ẩn nhiều thiên tai và rủi ro.

Trong những năm qua, thông qua các chương trình 327, 661 và chương trình bảo vệ phát triển rừng giai đoạn 2011 - 2020, tỉnh Hà Giang đã được Chính phủ hỗ trợ công tác bảo vệ và phát triển rừng đặc biệt là diện tích rừng phòng hộ. Một trong những huyện được tỉnh Hà Giang ưu tiên đầu tư phát triển rừng phòng hộ là huyện Yên Minh, đây là huyện có địa hình bị chia cắt, độ dốc lớn, là lưu vực của các sông suối lớn chảy về các dòng sông chính trên địa bàn tỉnh. Giai đoạn 2011 - 2015, huyện Yên Minh đã được đầu tư trồng 4.147,2 ha từ chương trình bảo vệ và phát triển rừng, góp phần nâng cao độ che phủ rừng lên 35,6%. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực kế hoạch trồng rừng phòng hộ còn bộc lộ nhiều hạn chế như chất lượng rừng, diện tích rừng trồng thành rừng, tỷ lệ cây sống, tình hình sinh trưởng của các loài cây... chưa được đánh giá nhằm đưa ra các giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng rừng trồng.

Để góp phần giải quyết những tồn tại nêu trên, đề tài “Đánh giá kết quả trồng rừng phòng hộ giai đoạn 2011 - 2015 tại huyện Yên Minh tỉnh Hà Giang” đã được thực hiện. Phương hướng của đề tài là tiến hành đánh giá đầu vào, kết quả đầu ra về chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm cải thiện kết quả của hoạt động trồng rừng phòng hộ trên địa bàn huyện Yên Minh.



1.1. Trên thế giới‌

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

1.1.1. Các nghiên cứu về đánh giá kết quả trồng rừng

Hoạt động trồng rừng của huyện Yên Minh được tổ chức thực hiện theo phương thức của dự án. Vì vậy, dưới đây tóm tắt một số nét chính có liên quan đến các nghiên cứu về đánh giá kết quả trồng rừng của dự án.

Đánh giá kết quả trồng rừng phòng hộ giai đoạn 2011 - 2015 tại huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang - 2

Theo Cleland và King (1975) [45]: Dự án là sự kết hợp giữa các yếu tố nhân lực và trí lực trong một thời gian nhất định để đạt được mục tiêu cụ thể. Vấn đề quan trọng được đặt ra là dự án phải có mục tiêu nhất định và quá trình thực hiện dự án phải hướng tới các mục tiêu đó.

Theo Clipdap [dẫn Ngọc Lê Huy, 2002] [20]: Dự án là một tập hợp các hoạt động để giải quyết một vấn đề hay hoàn thiện một trạng thái đặc biệt nào đó. Nội dung được nhấn mạnh ở đây là các hoạt động có tính định hướng của dự án để giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó.

Theo tài liệu hội thảo PIMES (Hội chữ thập đỏ, 2002, Chương trình phòng ngừa thảm họa) [13] đã đưa ra hai khái niệm: Dự án là quá trình gồm các hoạt động đã được lập kế hoạch nhằm đạt được những thay đổi mong muốn hoặc đạt được một mục tiêu cụ thể nào đó; Dự án là quá trình phát triển có kế hoạch, được thiết kế nhằm đạt được mục tiêu cụ thể với khoản ngân sách xác định trong thời gian xác định.

Thông thường, trong vòng 3 hoặc 5 năm sau khi kết thúc dự án các Bộ hay Công ty độc lập sẽ tiến hành đánh giá dự án. Tâm điểm là đánh giá tác động và tính bền vững của dự án so với mục tiêu ban đầu. Trong sổ tay hướng dẫn Giám sát đánh giá của Ngân hàng thế giới cũng đã đưa ra nhiều khái niệm và phương pháp đánh giá tác động cho các dự án. Tuy nhiên, tất cả chỉ mang tính khái quát chung chung do đó việc áp


dụng các lý thuyết và hướng dẫn này cũng cần phải linh hoạt [60]. Trong quá trình thực hiện dự án, hoạt động đánh giá có thể được tiến hành vào những giai đoạn quan trọng, thường gọi là đánh giá giai đoạn (Gittinger 1982) [50]. Có nhiều tác giả cho rằng, điều quan trọng là phải tiến hành đánh giá có sự tham gia của các bên có liên quan mà quan trọng nhất là người hưởng lợi từ dự án (Theo Katherine Warnerm, Auguctamolnar jonh B. Raintree, 1989- 1991) [52].

Trước những năm 1990, thuật ngữ “đánh giá dự án” mới chỉ giới hạn ở đánh giá hiệu quả dự án trong đó có hiệu lực thực thi. Từ sau năm 1990 các hoạt động đánh giá được thực hiện đã bao gồm cả đánh giá tác động dự án, tức là xem xét các hoạt động của dự án đó có bền vững sau khi dự án kết thúc không (John et al, 2000) [51]. Hiện nay, việc đánh giá tác động được coi như bắt buộc đối với tất cả các hoạt động đánh giá, bao gồm tất cả các thay đổi về sinh thái, văn hoá - xã hội, kinh tế, kỹ thuật, thể chế và chính sách đem lại bởi các hoạt động của một chương trình, dự án.

FAO (1979) [48] đã xuất bản tài liệu “Phân tích các dự án Lâm nghiệp” do Hans M - Gregersen và Amoldo H. Contresal biên soạn. Đây là tài liệu giảng dạy dùng cho các địa phương mà tổ chức FAO có đầu tư dự án trồng rừng và phát triển lâm nghiệp; tài liệu này tương đối đầy đủ và phù hợp với điều kiện đánh giá hiệu quả các dự án lâm nghiệp ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta.

Thành quả đầu tiên về đánh giá hiệu quả phát triển rừng phải kể đến là sự công bố phần mềm có tên là EVALUE của Cục Nông nghiệp Mỹ vào năm 1980. Báo cáo đánh giá của Winconsin Woodland, Michael Luedeke và Jeff Martin (1996) [dẫn Trần Xuân Thiệp, 1996] [38] đây là phần mềm cho phép người sử dụng đánh giá được hiệu quả đầu tư cho các Dự án trồng rừng. Tuy nhiên, chương trình máy tính này chỉ dừng lại ở mức đánh giá hiệu quả tài


chính thông qua các chỉ tiêu NPV, IRR,... Các tác giả cũng khuyến nghị thêm rằng hoạt động đánh giá tài chính đơn thuần chỉ nên sử dụng cho các công ty kinh doanh mà lợi nhuận kinh tế là yếu tố hàng đầu, còn đối với các Dự án đầu tư mang nhiều yếu tố xã hội thì nên cân nhắc việc đánh giá hiệu quả cả xã hội và môi trường.

FAO (1990, 1997) [55] [58] cũng nhấn mạnh việc đánh giá hiệu quả xã hội và môi trường khi đưa ra các báo cáo tham luận về lâm nghiệp xã hội, lâm nghiệp cộng đồng. Cũng theo FAO (1996) [57], một Dự án lâm nghiệp dù có đạt được hiệu quả tài chính cao (NPV, IRR, BCR,…) nhưng chưa đạt được hiệu quả xã hội là (giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, nâng cao trình độ dân trí,…), và hiệu quả môi trường (không gây ô nhiễm môi trường, xói mòn đất,…) thì không được coi là một Dự án bền vững.

Việc ký kết Nghị định thư Kyoto cũng như việc thành lập Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) năm 1997 càng đề cao vai trò của việc đánh giá hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường của một Dự án đầu tư, đặc biệt các Dự án trồng rừng. Theo khuyến nghị của nhiều chuyên gia thì cần phải có hoạt động đánh giá môi trường riêng rẽ bao gồm tất cả các chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực của các Dự án trồng rừng đến môi trường như mức độ xói mòn đất, khả năng ngăn ngừa thiên tai, độ che phủ rừng, sự hấp thụ và phát thải CO2.

Nếu như việc đánh giá Dự án được tiến hành sau khi thực hiện Dự án

được một số năm hoặc đã kết thúc, nhằm đưa ra những kết quả, làm rõ những thành công hay thất bại và rút ra những bài học kinh nghiệm để quản lý chu kỳ tiếp theo trong tương lai của Dự án, thì việc đánh giá hiệu quả Dự án, đặc biệt là Dự án đầu tư lâm nghiệp được hình thành từ yêu cầu khách quan về sự phát triển bền vững của Rừng - Môi trường - Con người. Ngoài hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường của quá trình đầu tư, thông qua quá trình đánh giá thực trạng và hiệu quả phát triển rừng của Dự án giúp chúng ta định lượng


được những tổn thất, những tái tạo về rừng và môi trường do tác động của Dự án đem lại, từ đó làm cơ sở cho việc tính toán mức chi phí cần thiết cho bảo vệ rừng, điều chỉnh các hoạt động thực tiễn phù hợp, đảm bảo có lợi cho môi trường từ bảo vệ và phát triển rừng mang lại.

Năm 2003, Tổ chức nghiên cứu cao cấp về phát triển quốc tế Nhật Bản đã đề xuất việc đánh giá hiệu quả đầu tư Dự án không chỉ tập trung so sánh kết quả đầu ra với đầu vào của Dự án mà còn phải xem xét những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, hiện tại và tương lai, thậm chí là những ảnh hưởng gián tiếp phát sinh từ những ảnh hưởng trực tiếp. Vì vậy trong quá trình đánh giá hiệu quả Dự án, việc thiết kế phương pháp và câu hỏi nên chia thành 2 nhóm vấn đề chính: Các vấn đề đan xen (chính sách, kỹ thuật, môi trường, văn hóa - xã hội, thể chế - quản lý và kinh tế - tài chính) và phân loại tác động thành 4 nhóm: tích cực/tiêu cực và mong đợi/không mong đợi.

Theo FAO (1987) [47], hướng dẫn đánh giá hiệu quả kinh tế các Dự án quản lý lưu vực, thì đánh giá về mặt kinh tế thường được dùng để phân tích các lợi ích và chi phí của xã hội, nên các lợi ích và chi phí đó phải được tính cho suốt thời gian mà chúng còn có tác dụng, nhất là đối với Dự án trồng rừng, phải sau khoảng thời gian dài thì chúng mới cho sản phẩm, đồng thời lại có những tác động về mặt môi trường có thể còn có tác dụng trong một thời gian dài sau khi kết thúc Dự án. Vậy cần vận dụng khoảng thời gian nào để đánh giá thì thích hợp là câu hỏi đang được đạt ra.

Theo Lyn Squyre trong tài liệu “Phân tích kinh tế Dự án” [54] đã chỉ ra rằng, trong trường hợp các chi phí hoặc lợi ích môi trường kéo dài trong tương lai thì các lợi ích và chi phí đó phải được đưa vào phân tích. Không phải là Dự án đã kết thúc về mặt hành chính mà chúng ta bỏ qua các lợi ích và chi phí về môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề tỷ suất chiết khấu và lý do muốn giản đơn việc tính toán đã làm cho nhiều người chọn thời hạn


phân tích và đánh giá ngắn hơn nhiều. Đối với các Dự án trồng rừng thì thì thời hạn đánh giá phải đủ lớn (chừng khoảng 10-15 năm) để thấy đầy đủ và rõ ràng các lợi ích và chi phí kinh tế.

Việc nghiên cứu về ảnh hưởng của rừng trồng đến môi trường đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định vai trò to lớn của rừng trồng đặc biệt là rừng trồng phòng hộ đầu nguồn. Các chức năng phòng hộ của rừng bao gồm cả việc giữ đất và do đó kiểm soát xói mòn và quá trình lắng đọng bùn cát, điều tiết dòng chảy, hạn chế lũ lụt, cung cấp nguồn nước, kiểm soát chất lượng nước...

Các nghiên cứu của các tác giả cũng quan tâm nhiều tới vai trò của rừng trong việc phòng hộ môi trường, đề cập tới vấn đề dinh dưỡng đất, chế độ nước, khả năng ngăn cản xói mòn, dòng chảy.

Theo Zhang và cộng sự (2007) [dẫn Trần Trung Thành, 2010] [37] cho rằng, rừng trồng có ảnh hưởng đối với dòng chảy mặt và dòng chảy ngầm cho nên nó gây ảnh hưởng đối với độ mặn của nước sông suối trong lưu vực, cần ưu tiên lựa chọn vùng trồng rừng cho hợp lý trên quan điểm quản lý nguồn nước.

Nghiên cứu sử dụng đất rừng phòng hộ đầu nguồn cũng được quan tâm. Các mô hình sử dụng đất đã được xây dựng có thể kể tới như: mô hình du canh của Conklin, 1975; tiếp đó là phương thức Taungya được U.Pankle đề xuất năm 1806. Phương thức Taungya của Pankle là trồng xen cây nông nghiệp ngắn ngày vào rừng Tếch chưa khép tán. Đến năm 1977 King đã đề xuất phương thức nông lâm kết hợp thay thế cho phương thức Taungya [ dẫn Hà Thị Mừng, 2009] [24].

Các giải pháp kỹ thuật phục hồi rừng phòng hộ đầu nguồn cũng được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Các tác giả chủ yếu quan tâm tới các vấn đề như tái sinh rừng nhiệt đới, tổ thành cây tái sinh có khác biệt hay giống với


tầng cây cao như các tác giả: Mibbread, 1930; Richards, 1933, 1939,1965; Aubrerrille, 1983 [dẫn theo 11]. Các phương thức kỹ thuật lâm sinh xử lý nhằm xúc tiến tái sinh rừng nhiệt đới cũng được nghiên cứu bởi nhiều tác giả như Kennedy, 1935; Lancaster, 1953 [dẫn Nguyễn Thị Oanh, 2012] [25] v.v..

Trong những năm gần đây, Trung tâm Lâm nghiệp quốc tế (CIFOR) đã tiến hành nghiên cứu về quản lý lập địa và sản lượng rừng cho rừng trồng ở các nước nhiệt đới. CIFOR đã tiến hành nghiên cứu trên các đối tượng là Bạch đàn, Thông, Keo trồng thuần loài tại các dạng lập địa ở các nước Brazil, Công gô, Nam Phi, Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ và nay bắt đầu nghiên cứu ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy các biện pháp xử lý lập địa khác nhau và các loài cây trồng khác nhau đã có ảnh hưởng rất khác nhau đến một số yếu tố độ phì đất, cân bằng nước, sự phân huỷ thảm mục và chu trình dinh dưỡng khoáng.

1.1.2. Các biện pháp kỹ thuật xây dựng và các mô hình rừng phòng hộ

Đối với rừng phòng hộ đầu nguồn, một số nước trên thế giới đã áp dụng phương pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, trồng bổ sung, bảo vệ ngăn ngừa các tác động xấu tới rừng.

Tại Malaysia đã xây dựng rừng nhiều tầng với việc sử dụng 2 loài cây trồng khác nhau [dẫn Ngọc Lê Huy, 2012] [20].

Nhật Bản cũng đã tạo rừng nhiều tầng bằng cách khai thác rừng theo băng rộng 4-5 m và sau đó trồng mới vào các băng rừng đã chặt. Biện pháp kỹ thuật xây dựng rừng phòng hộ ven biển cũng được quan tâm nghiên cứu [dẫn Ngọc Lê Huy, 2012] [20].

Các công trình nghiên cứu của V.A Lômitcôsku (1809), Dokuchaep (1982), X. A Timiriazep (1983, 1909, 1911) [ dẫn Nguyễn Thế Hưng, 2003]

[19] đều cho rằng trên các hoang mạc muốn cải thiện tiểu khí hậu và cải tạo đất phải trồng rừng phòng hộ thành hệ thống đai theo mạng lưới ô vuông, có kết cấu kín, có hỗn giao nhiều tầng.


Ở Trung Quốc và các nước Trung Đông, miền Đông và Tây Châu Phi thì Phi lao được coi là loài cây chủ đạo trồng trên các vùng cát thành các hệ thống đai có chiều rộng ít nhất ít nhất 100 - 200 m. Sau đai rừng Phi lao là các đai rừng hỗn giao hoặc thuần loài của Bạch đàn, Keo, Thông nhựa, phía trong cùng sau các đai rừng dùng để canh tác nông nghiệp [dẫn Ngọc Lê Huy, 2012] [20].

1.2. Ở Việt Nam

1.2.1. Các nghiên cứu về đánh giá kết quả trồng rừng

Từ những năm 1990 trồng rừng ở nước ta đã được Chính phủ và ngành lâm nghiệp hết sức chú trọng, điển hình là chường trình 327 phủ xanh đất trống đồi núi trọc và đến năm 1998 chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng được Quốc Hội thông qua đã đánh giá một bước ngoặt quan trọng trong công tác phục hồi và phát triển rừng, bên cạnh đó nhiều chương trình, Dự án của các tổ chức quốc tế đã quan tâm đầu tư cho công tác bảo vệ và phát triển rừng của Việt Nam. Từ đó, đã có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, đánh giá về sinh trưởng, tăng trưởng, phát triển rừng trồng ở Việt Nam. Dưới đây là một số nghiên cứu tiêu biểu về rừng trồng đã được thực hiện ở nước ta.

Năm 1983- 1985 Nguyễn Xuân Quát; Vũ Văn Mễ và Đoàn Bổng đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Bước đầu xác định cây trồng cho các vùng kinh tế lâm nghiệp” [28]. Kết quả đề tài đã tổng hợp cơ cấu cây trồng cho 9 vùng kinh tế lâm nghiệp, trong đó có một số loài cây bản địa.

Nguyễn Xuân Quát (1996) [29] đã nghiên cứu “Sử dụng đất tổng hợp và bền vững”, kết quả đã đưa ra được các mô hình sử dụng đất tổng hợp và bền vững, khoanh nuôi và phục hồi rừng Việt Nam, bước đầu đề xuất tập đoàn cây trồng thích ứng cho các mô hình này. Nguyễn Hoàng Nghĩa (2003)

[24] cũng đã có nghiên cứu xác định phạm vi phân bố và vùng tiềm năng trồng rừng của một số loài cây dựa vào nhu cầu khí hậu.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/12/2022