hoạch dài hạn của doanh nghiệp. Vì vậy khoản chi tiêu này cũng sẽ bị hạn chế. Khi đó, dù doanh nghiệp cung cấp muốn cung cấp dịch vụ có chất lượng nhưng giá thành cao thì bản thân doanh nghiệp sẽ không chấp nhận và tìm đến các nhà cung cấp khác có giá thành thấp hơn.
Các nhà cung cấp dịch vụ của nước ta đa số là mới thành lập, cơ sở thông tin dữ liệu còn thiếu, lại chưa có kinh nghiệm cung cấp dịch vụ nên thường là chất lượng dịch vụ cung cấp không cao. Doanh nghiệp lại chưa tạo được uy tín cũng như niềm tin với khách hàng, dẫn tới việc doanh nghiệp không muốn cung cấp các thông tin nội bộ, vì vậy mà doanh nghiệp cung cấp cũng không thể cung cấp các dịch vụ có chất lượng cho khách hàng.
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hiện nay trên thị trường ngoài các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhà nước như VCCI hoặc các dự án hỗ trợ của nước ngoài, ngoại trừ một số tập đoàn tư vấn lớn của nước ngoài, còn lại chỉ là các công ty tư nhân hoặc trách nhiệm hữu hạn trong nước nhỏ lẻ. Nhiều công ty tự phát chưa được sự quản lý chặt chẽ của nhà nước nên chất lượng chưa đảm bảo. Thị trường DVPTKD lại là thị trường mới, có nhiều cơ hội phát triển trong tương lai nên ngày càng có nhiều doanh nghiệp muốn tham gia vào thị trường dẫn tới sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tâm lý của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn là muốn có được dịch vụ giá rẻ nên các doanh nghiệp cạnh tranh nhau về giá có thể làm cho chất lượng dịch vụ bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Việt Nam còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ nước ngoài, lợi thế của các nhà cung cấp trong nước chỉ là am hiểu về thị trường hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài nhưng lại thiếu kinh nghiệm cung cấp dịch vụ như các doanh nghiệp nước ngoài nên thường các doanh nghiệp trong nước sẽ chọn cạnh tranh về giá. Tâm lý người tiêu dùng Việt Nam vẫn là thích dùng sản phẩm giá rẻ nên họ thường chọn nhà cung cấp dựa trên mức giá đưa ra dẫn
đến tình trạng sử dụng phải dịch vụ không có chất lượng cao. Với những dịch vụ như vậy thì kết quả mà dịch vụ mang lại thường không tốt, nhiều khi doanh nghiệp chỉ sử dụng dịch vụ một lần mà không thấy hiệu quả sẽ không còn muốn tiếp tục sử dụng dịch vụ nữa. Thực tế này đòi hỏi các doanh nghiệp cần đầu tư hơn nữa vào ngân sách cho việc sử dụng dịch vụ, tìm đến các nhà cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, sử dụng hiệu quả dịch vụ, từ đó phát triển hoạt động kinh doanh.
2.3.3. Một số nguyên nhân khác
Bên cạnh những nguyên nhân tác động trực tiếp đến hiệu quả sử dụng dịch vụ nêu trên, một số nhân tố khác như thị trường DVPTKD hiện nay của Việt Nam, các chính sách của nhà nước cũng có tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp.
- Thị trường DVPTKD chưa phát triển, điều này có tác động không nhỏ tới chất lượng dịch vụ. Một khi thị trường dịch vụ đã phát triển, sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp sẽ là rất lớn, doanh nghiệp cung cấp muốn tồn tại tất yếu sẽ phải nâng cao chất lượng dịch vụ, tìm cách cải tiến quy trình cung cấp dịch vụ, tạo dựng lòng tin của khách hàng. Vậy nhưng thị trường DVPTKD ở Việt Nam mới chỉ trong giai đoạn mới bắt đầu, các doanh nghiệp mới thành lập gia tăng nhanh chóng về số lượng nhưng về chất lượng lại không có sự cải tiến đáng kể. Đây là một điều thiệt thòi cho các doanh nghiệp Việt Nam.
- Nhà nước chưa có sự quan tâm thích đáng đến dịch vụ này, đến những năm gần đây, Nhà nước mới đưa việc phát triển DVPTKD vào một mục tiêu phấn đấu trong các chương trình, kế hoạch của chính phủ. Nhà nước mới chỉ hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp nhỏ bằng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (là các dịch vụ cung cấp bởi các cơ quan, hiệp hội của nhà nước và mang tính chất hỗ trợ, doanh nghiệp được sử dụng mà mất phí) còn đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thì chưa nhận được nhiều sự hỗ trợ. Đến nay, Nhà
nước vẫn chiếm ưu thế và gần như giữ độc quyền trong một số lĩnh vực như viễn thông, bảo hiểm, vận tải,… Do đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn cung cấp những dịch vụ này cũng không hề đơn giản, các doanh nghiệp mới thành lập không có khả năng cạnh tranh, gặp nhiều khó khăn, tốn kém chi phí, từ đó đẩy giá thành dịch vụ lên cao.
Có thể bạn quan tâm!
- Cung Của Thị Trường Dịch Vụ Phát Triển Kinh Doanh
- Tình Hình Sử Dụng Các Loại Hình Dịch Vụ Phát Triển Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp Việt Nam
- Mức Độ Hài Lòng Của Doanh Nghiệp Sau Khi Sử Dụng Dịch Vụ
- Khuyến Khích Các Thành Phần Kinh Tế Tham Gia Hoạt Động Cung Ứng Dvptkd
- Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Sử Dụng Đối Với Từng Loại Hình Dịch Vụ Phát Triển Kinh Doanh
- Đánh giá hiệu quả sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Qua phân tích trên có thể đưa ra kết luận, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa sử dụng hiệu quả các DVPTKD. Thị trường DVPTKD chưa thực sự phát triển, chất lượng nguồn cung chưa cao, cầu của thị trường lớn nhưng các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ lại chưa tiếp cận được với các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ. Doanh nghiệp sử dụng dịch vụ thì chưa hài lòng với dịch vụ được cung cấp, cũng chưa đầu tư nhiều cho việc sử dụng dịch vụ. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thì chưa được đánh giá là chuyên nghiệp, nhiều doanh nghiệp chỉ sử dụng dịch vụ một lần rồi không muốn tiếp tục sử dụng nữa. Về phía nhà nước cũng chưa có sự quan tâm thích đáng đến thị trường DVPTKD. Đây sẽ là nhưng cơ sở để đề ra một số giải pháp ở chương 3 nhằm phát triển thị trường DVPTKD và giúp doanh nghiệp tăng cường hiệu quả sử dụng dịch vụ.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DỊCH VỤ PHÁT TRIỂN KINH DOANH
DVPTKD có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nhưng trên thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự sử dụng các dịch vụ này một cách hiệu quả. Từ những đánh giá về thực trạng sử dụng DVPTKD hiện nay của các doanh nghiệp và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng sử dụng dịch vụ không hiệu quả của các doanh nghiệp, một số giải pháp sau được đưa ra nhằm giúp doanh nghiệp cải thiện tình hình, nâng cao hiệu quả sử dụng dịch vụ.
3.1. Giải pháp từ phía Nhà nước
Tuy rằng sự hỗ trợ từ phía Nhà nước chỉ mang lại hiệu quả gián tiếp cho hoạt động sử dụng DVPTKD của các doanh nghiệp nhưng Nhà nước lại đóng một vai trò quan trọng đó là điều tiết nền kinh tế, không có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước thì việc cung ứng và sử dụng DVPTKD cũng sẽ không được thuận tiện và dễ dàng, doanh nghiệp có thể sử dụng dịch vụ không được hiệu quả. Do đó, một số biện pháp mà Nhà nước áp dụng sẽ có tác động tích cực làm phát triển thị trường DVPTKD, góp phần nâng cao chất lượng và cải thiện hiệu quả sử dụng DVPTKD.
3.1.1. Nâng cao nhận thức và hiệu quả sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh tại các doanh nghiệp
Việc nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp sử dụng DVPTKD không chỉ từ phía các doanh nghiệp này mà nhà nước cũng đóng vai trò rất quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao nhận thức và hiệu quả sử dụng các DVPTKD. Một số biện pháp đề ra đối với nhà nước như sau:
- Tổ chức các lớp tập huấn, các cuộc hội thảo cho các nhà quản trị doanh nghiệp nhằm đúc kết và trao đổi kinh nghiệm sử dụng DVPTKD đồng
thời giúp các doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn trong việc sử dụng những dịch vụ này. Đồng thời tạo không gian gặp gỡ giữa các doanh nghiệp cung ứng và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ nhằm giúp họ hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau cùng phát triển.
- Một số mô hình doanh nghiệp cung ứng và sử dụng dịch vụ có hiệu quả cần được đúc kết và tuyên truyền thông qua các hội nghị chuyên ngành, các ấn phẩm dưới dạng phổ biến kinh nghiệm hoạt động của các doanh nghiệp nhằm tạo động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp khác sử dụng dịch vụ.
- Các viện nghiên cứu cần có chương trình nghiên cứu chuyên sâu về sự phát triển DVPTKD và giới thiệu kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và thế giới nhằm góp phần thúc đẩy việc cung ứng và sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp.
- Cần tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, xây dựng và hoàn thiện lý luận về mô hình, bản chất, sự vận động của thương mại và thị trường với đặc thù của từng vùng, từng địa phương, để từ đó làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định các chủ trương, chiến lược phát triển lâu dài các ngành dịch vụ nói chung.
- Thông qua các hiệp hội doanh nghiệp, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, trung tâm xúc tiến thương mại và các tổ chức khác tuyên tryền quảng bá về vai trò của DVPTKD đối với sự phát triển DNVVN.
- Thúc đẩy thị trường DVPTKD phát triển thông qua các chính sách nhằm thu hút nhiều công ty tham gia vào lĩnh vực cung ứng DVPTKD, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào dịch vụ cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn dịch vụ của các DNVVN.
- Các nhà tài trợ và Chính phủ thực hiện hỗ trợ cho những hoạt động trước và sau cung ứng dịch vụ. Hạn chế và đi đến loại bỏ hình thức hỗ trợ ở
cấp độ giao dịch - trực tiếp cung cấp dịch vụ cho DNVVN, hoặc bao cấp thường xuyên cho các doanh nghiệp.
3.1.2. Tạo lập môi trường hoạt động cho sự phát triển của dịch vụ phát triển kinh doanh
Trong việc nâng cao chất lượng DVPTKD thì vai trò định hướng của nhà nước cũng rất quan trọng. Để có thể đóng góp vào việc nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ này, trước tiên Nhà nước phải định hướng và xây dựng khung pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp cung ứng và sử dụng sao cho các doanh nghiệp cung ứng ngày càng phát triển và lớn mạnh trên thị trường. Đồng thời cũng phải bảo đảm sự cân đối cung ứng và sử dụng giữa các vùng, miền. Từ đó sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp thúc đẩy việc nâng cao chất lượng các dịch vụ.
- Đối với một vài thị trường thiếu sự cạnh tranh, cần khuyến khích nguồn cung tư nhân, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà cung cấp quốc doanh và tư nhân.
- Rà soát và chỉnh sửa lại các văn bản về lĩnh vực DVPTKD theo định hướng hỗ trợ hoạt động này phát triển. Hoàn thiện hệ thống luật: hiện tại nhiều văn bản luật với những điều khoản dường như đi ngược lại tinh thần của Luật doanh nghiệp vẫn còn lưu hành. Chẳng hạn như Nghị định 87 về dịch vụ tư vấn,… hướng dẫn đăng ký kinh doanh hoặc điều kiện đăng ký kinh doanh cho một vài loại dịch vụ là chưa rõ ràng, ví dụ dịch vụ tư vấn luật,… Những trở ngại cho một số hoạt động của DVPTKD vẫn còn tồn tại, ví dụ như quy định mức tối đa chi phí quảng cáo cho một doanh nghiệp.
- Một vài chính sách của chính phủ gây trở ngại cho thị trường, cần tổ chức đối thoại giữa khu vực kinh tế tư nhân và chính phủ về những quy định pháp lý đối với DVPTKD thông qua các tổ chức hỗ trợ DNVVN của chính phủ.
3.1.3. Có biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phát triển kinh doanh
- Chính phủ và các nhà tài trợ cần hỗ trợ cung cấp DVPTKD cho các nhà cung cấp dịch vụ, đặc biệt là nguồn nhân lực, máy móc, công nghệ. Hỗ trợ về miễn giảm thuế, hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ huấn luyện nghiệp vụ chuyên môn, hỗ trợ thông qua phát triển sản phẩm DVPTKD, nâng cao chất lượng và đẩy mạnh hoạt động tiếp thị của các tổ chức cung ứng DVPTKD.
- Tạo môi trường cạnh tranh giữa các nhà cung ứng DVPTKD. Chỉ có trên cơ sở cạnh tranh, các nhà cung ứng DVPTKD mới vươn lên nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của doanh nghiệp, thể hiện hết trách nhiệm của mình trong quá trình cung ứng dịch vụ.
- Tiến hành rà soát lại một cách toàn diện về điều kiện, khả năng của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, trong đó đặc biệt chú trọng tới các vấn đề: mặt bằng, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị phục vụ cho quy trình cung cấp dịch vụ, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp,… Trên cơ sở đó có thể tìm ra được những điểm yếu, điểm mạnh của từng nhà cung ứng và có hướng xử lý sao cho phù hợp.
- Mở cửa DVPTKD cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia, cho phép các tổ chức cung ứng DVPTKD hoạt động theo điều kiện và loại bỏ những cản trở bất hợp lý về chi phí đối với việc sử dụng các dịch vụ bên ngoài trong đó có DVPTKD.
- Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, áp dụng các biện pháp đa dạng hóa đối với các doanh nghiệp đang độc quyền cung cấp DVPTKD.
- Tiến hành kiểm tra đánh giá chất lượng các dịch vụ cung ứng của từng nhà cung cấp, từng cơ sở dịch vụ, từ đó xây dựng được kế hoạch phù hợp với tình hình hiện nay.
Đồng thời nhà nước cũng cần phải đưa ra các tiêu chuẩn về quy trình cung ứng dịch vụ như: phương thức cung cấp dịch vụ, sự đồng nhất về các khâu trong quy trình cung ứng từ doanh nghiệp đến khách hàng; thái độ phục vụ của nhà cung cấp với khách hàng; các yêu cầu về đảm bảo tính an toàn, thuận tiện, nhanh chóng,… thì việc cung cấp dịch vụ mới đạt được hiệu quả cao. Qua đó có thể loại được những doanh nghiệp cung cấp DVPTKD không đủ tiêu chuẩn chất lượng, có thể có kế hoạch sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước cung cấp các DVPTKD có quy mô nhỏ để tạo ra sức mạnh tổng hợp lớn hơn đối với việc kinh doanh các dịch vụ tại các doanh nghiệp này và từng bước nâng cao chất lượng các DVPTKD do các doanh nghiệp nhà nước cung ứng.
3.1.4. Hoàn thiện chính sách vốn cho các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ
Hiện nay, một số doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ quan trọng như vận tải, kho bãi, quảng cáo cho rằng thiếu vốn là nguyên nhân quan trọng nhất làm hạn chế sự phát triển của họ. Trong thực tế, các doanh nghiệp này gặp phải nhiều khó khăn trong đầu tư vốn cho xây dựng kho bãi, mua sắm phương tiện vận tải.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ khác như quảng cáo, nghiên cứu thị trường, thiết kế bao bì cũng cho rằng thiếu vốn là nguyên nhân quan trọng hạn chế sự phát triển của họ. Trở ngại đầu tiên đối với các doanh nghiệp này là xuất phát từ quy mô nhỏ và vừa, vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao. Vì vậy, khi chưa tạo dựng được uy tín bằng năng lực kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn thì họ khó tiếp cận với vốn tín dụng của Nhà nước. Hơn nữa, trong thực tế, thì doanh nghiệp nhà nước được vay vốn với mức cao hơn doanh nghiệp liên doanh, thủ tục vay cũng dễ dàng hơn (mặc dù trên lý thuyết không có sự phân biệt nào). Do đó, để có đủ vốn, các doanh nghiệp phải vay từ nhiều nguồn khác nhau với lãi suất cao và bị động nên khó khăn cho việc duy trì và phát triển hoạt động. Điều này cũng là nguyên nhân làm cho giá cả dịch vụ đắt đỏ.