doanh nghiệp, nhất là các DNVVN giảm chi phí cố định, cung cấp kỹ năng và nâng cao chất lượng hoạt động, cải thiện hiệu quả kinh doanh, cung cấp thông tin thị trường. Báo cáo của Chương trình Phát triển Dự án Mê Kông (MPDF) cũng cho rằng tương lai phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam gắn liền với sự phát triển của một số ngành DVPTKD then chốt. Các tác giả này cho rằng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng giúp khu vực kinh tế tư nhân phát triển và do vậy cần tạo môi trường kinh doanh thông thoáng hơn giúp phát triển các dịch vụ này. Tuy nhiên, chính các doanh nghiệp tư nhân cũng lại có thế mạnh và có vai trò đặc biệt quan trọng góp phần vào sự phát triển của khu vực kinh tế DVPTKD tại Việt Nam. Đây là lĩnh vực đầu tư có nhiều cơ hội và khu vực kinh tế tư nhân chiếm thế mạnh.
2.1.1.1. Cung của thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh
Thứ nhất, tuy đến nay khu vực dịch vụ đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập quốc nội, chiếm 38% GDP trong năm 2008 nhưng DVPTKD chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trong khu vực dịch vụ. Tại những nền kinh tế phát triển như Singapo, DVPTKD đóng góp tới 15% tổng sản phẩm quốc nội. Còn đối với những nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), một số nước DVPTKD có mức tăng trưởng trung bình 10%/năm. Tuy nhiên ở Việt Nam, trong những năm gần đây, DVPTKD mới bắt đầu phát triển và chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng sản phẩm quốc nội - khoảng 1% với mức tăng trưởng rất thấp khoảng 1-2%/năm [14]. Mặc dù, trong những năm qua, số lượng các doanh nghiệp cung cấp DVPTKD ở Việt Nam được thành lập ngày càng nhiều nhưng nhìn chung quy mô nhỏ, hiệu quả hoạt động còn nhiều hạn chế. Nói cách khác là thị trường DVPTKD ở Việt Nam kém phát triển, mới đang trong giai đoạn khởi đầu và dần phát triển. Đây là một sự thiệt thòi cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, về triển vọng phát triển thì có thể coi đây là lĩnh vực đầu tư rất có tiềm năng. Có thể thấy số lượng các doanh nghiệp được thành
lập và hoạt động trong lĩnh vực này ngày một gia tăng trong thời gian qua. Chỉ tính riêng lĩnh vực tư vấn quản lý, tư vấn luật, tư vấn đào tạo, số lượng các doanh nghiệp được thành lập mới hiện đang tăng theo cấp số nhân (thể hiện rõ nét thông qua sự gia tăng nhanh chóng số lượng các doanh nghiệp tư vấn đăng ký trên niên giám điện thoại các trang vàng). Đầu tư vào ngành DVPTKD đang nhận được sự quan tâm lớn của đội ngũ chủ doanh nghiệp trẻ và các chủ doanh nghiệp có học vấn cao. Theo các chủ doanh nghiệp, sự lựa chọn đầu tư vào ngành này cho phép khắc phục được các đòi hỏi về vốn lớn, cơ sở vật chất nhiều, hơn nữa đây là các lĩnh vực mới tại Việt Nam và hiện có mức độ cạnh tranh chưa cao. Tuy nhiên, chỉ trong vài năm nữa, mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực này sẽ gia tăng, và cấu trúc thị trường sẽ được biểu hiện rõ nét hơn với nhiều doanh nghiệp có uy tín và quy mô.
Thứ hai, hầu hết các nhà cung ứng DVPTKD tại nước ta có quy mô nhỏ và thuộc khu vực kinh tế tư nhân, ngoại trừ một số doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn quốc tế. Rất nhiều doanh nghiệp có liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực tư vấn kế toán và kiểm toán. Các dịch vụ này được phân bố không đều, chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh. Các doanh nghiệp tại địa phương thường phải tìm về các thành phố lớn để tìm kiếm các dịch vụ này nếu có nhu cầu.
Thứ ba, dịch vụ được cung cấp còn thiếu tính chuyên nghiệp, mang tính chung chung và ít bám sát nhu cầu của khách hàng. Các nhà cung ứng dịch vụ còn thiếu chủ động trong chào bán sản phẩm của mình đến từng khách hàng. Thực tế là rất nhiều doanh nghiệp khách hàng được chào hàng với các dịch vụ ít phù hợp hoặc với các dịch vụ mà họ hoàn toàn có khả năng tự làm. Các dịch vụ chào bán chưa thực sự là các giải pháp kinh doanh gắn sát với thực tế của khách hàng.
Thứ tư, các DVPTKD ở nước ta hiện nay được cung ứng chủ yếu thông qua kênh quan hệ thương mại. Chẳng hạn các dịch vụ về đào tạo, kiểm soát
chất lượng, phát triển các sản phẩm mới, thông tin thị trường, tư vấn quản lý... thường được cung cấp bởi các bạn hàng thương mại của doanh nghiệp. Các dịch vụ này được cung ứng nhằm mục tiêu thuần tuý thương mại như thiết lập các quan hệ thương mại lâu dài, đảm bảo chất lượng và tiêu chuẩn của nhà cung cấp trong các hợp đồng gia công... Có lẽ đây là nguồn cung cấp DVPTKD chủ yếu cho các DNVVN ở nước ta do xuất phát điểm là có rất nhiều doanh nghiệp trong số họ là các đơn vị gia công hợp đồng.
Thứ năm, giá cả các DVPTKD ở Việt Nam còn đắt so với chất lượng của chúng. Kết quả điều tra của MPDF đã chỉ ra rằng ngược với thực trạng là giá lao động ở Việt Nam còn thấp thì giá DVPTKD lại cao và bị khách hàng coi là đắt so với chất lượng cung cấp. Trên thực tế do thị trường DVPTKD của nước ta còn rất mới mẻ do vậy chi phí hoạt động còn cao do thiếu kinh nghiệm. Chẳng hạn thông tin thứ cấp của nước ta còn ít, thiếu đồng bộ và độ tin cậy thấp (do công tác thống kê của nước ta còn yếu hoặc do vẫn còn có ít cuộc điều tra tư nhân được tiến hành trước đó), các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ do vậy phải tiến hành thu thập thông tin sơ cấp cho hầu hết các đơn đặt hàng, từ đó làm gia tăng chi phí. Cùng với sự gia tăng của tính chuyên nghiệp trong tương lai, chúng ta có thể tin tưởng rằng giá thành dịch vụ sẽ giảm dần.
2.1.1.2. Cầu của thị trường
Quá trình quyết định mua đối với các DVPTKD thường sẽ là sự lựa chọn giữa hai phương án là tự tổ chức thực hiện hay đi thuê ngoài. Xuất phát từ thực tế là các dịch vụ này ít đem lại hiệu quả kinh doanh trực tiếp cho khách hàng, do đó quá trình ra quyết định mua dịch vụ của các doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng lớn của tư duy về hiệu quả thu được trong tương lai từ các khoản đầu tư hiện tại của lãnh đạo doanh nghiệp. Lý do mà các doanh nghiệp thường thích tự làm mà không đi thuê dịch vụ bên ngoài hoặc chậm chạp trong ra quyết định sử dụng dịch vụ ngoài thường là do họ không thấy có nhu
cầu sử dụng dịch vụ hỗ trợ hoặc họ cho rằng không cần thiết phải sử dụng chuyên gia bên ngoài. Các khó khăn trong tìm kiếm nhà cung ứng thích hợp, khó khăn về mặt tài chính cũng là các nguyên nhân giải thích tại sao các dịch vụ này còn ít được sử dụng. Cuối cùng, lý do quan trọng khác là các doanh nghiệp thường cho rằng dịch vụ thuê ngoài chưa chắc đã có chất lượng và hiệu quả hơn so với việc tự làm.
Tuy nhiên vẫn cần phải khẳng định rằng nhu cầu tiềm năng về DVPTKD của các doanh nghiệp nước ta, nhất là các DNVVN là rất lớn. Chính sự gia tăng số lượng doanh nghiệp tham gia vào ngành dịch vụ này, sự lớn mạnh của các doanh nghiệp đang hoạt động sẽ góp phần nâng cao chất lượng và uy tín của các dịch vụ, từ đó loại trừ dần tư duy “tự làm bao giờ cũng tốt hơn” của các doanh nghiệp khách hàng. Hơn nữa, với số lượng doanh nghiệp được thành lập mới ngày càng đông, mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt thì nhu cầu sử dụng chuyên gia bên ngoài của các doanh nghiệp cũng sẽ tăng nhanh. Xét trên khía cạnh cơ cấu nền kinh tế thì các doanh nghiệp cung ứng DVPTKD sẽ có đóng góp tích cực vào GDP, và chúng ta hoàn toàn tin tưởng các loại hình dịch vụ này sẽ đóng góp được khoảng 10% GDP trong thập kỷ tới.
Năm nay, Việt Nam sẽ phải thực hiện cam kết mở cửa thị trường bán lẻ theo lộ trình gia nhập WTO, đây là mối lo ngại rất lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam trong mọi lĩnh vực nhưng lại là một cơ hội tốt đối với các doanh nghiệp cung cấp DVPTKD. Khi các tập đoàn bán lẻ quốc tế xâm nhập vào thị trường Việt Nam, nhu cầu đối với các DVPTKD trước mắt và trong tương lai sẽ là rất lớn, đó thực sự là một thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp cung cấp DVPTKD. Một khi nền kinh tế phát triển thì các nhu cầu về DVPTKD cũng sẽ tăng theo. Cho tới nay các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngoài khi muốn xâm nhập vào thị trường Việt Nam vẫn còn nhiều rào cản về pháp lý, do đó các doanh nghiệp này thường áp dụng chiến
lược liên kết với các công ty trong nước, đây là một cơ hội để các doanh nghiệp trong nước có thể học hỏi kinh nghiệm từ các nhà cung cấp dịch vụ uy tín trên thế giới. Thách thức với các doanh nghiệp cung cấp DVPTKD chỉ còn là làm sao họ có thể liên kết cùng nhau để tạo nên chuỗi liên hoàn các dịch vụ mang tính chuyên nghiệp cao hơn.
2.1.1.3. Vai trò của các cơ quan Nhà nước
Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong việc quy hoạch và khuyến khích phát triển các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, công tác quản lý Nhà nước với thị trường này còn yếu. Trước hết phải thấy rằng các chính sách của Nhà nước nhằm hỗ trợ phát triển và quy hoạch đối với các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường này còn rất thiếu. Lý do chủ yếu đó là nhận thức của Nhà nước về các DVPTKD còn chưa sát với thực tế phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp trong ngành. Bên cạnh đó, còn tồn tại nhiều quan điểm cho rằng các dịch vụ này chủ yếu được cung cấp bởi các cơ quan nhà nước, các phòng Thương mại và Công nghiệp hoặc các hiệp hội chứ không phải là một lĩnh vực kinh doanh có nhiều lợi nhuận.
Tiếp theo, có lẽ cũng chính vì chúng ta còn rất thiếu thông tin về thị trường này, do vậy việc xây dựng các chính sách quản lý Nhà nước còn hạn chế. Có thể nói, các số liệu thống kê hiện nay của nước ta còn rất chung chung. Thông tin cơ bản về số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này, quy mô, cơ cấu của chúng còn rất hạn chế. Các dịch vụ này thậm chí còn chưa có mục riêng trong Niên giám thống kê hàng năm của nước ta.
Đồng thời có thể nói rằng các doanh nghiệp nhà nước hiện đang giữ vị trí độc tôn trên cung ứng các dịch vụ thông tin liên lạc nhưng lại có vai trò hạn chế trong hầu hết các loại hình dịch vụ hỗ trợ phát triển khác. Ngoài ra, các dịch vụ cung ứng bởi các doanh nghiệp nhà nước còn rất thiếu tính cạnh
tranh do giá cả đắt hoặc do dịch vụ thường mang tính chung chung và thiếu chuyên nghiệp. Thực tế cũng chỉ ra rằng các doanh nghiệp tư nhân luôn chiếm ưu thế trong lĩnh vực này vì các lợi thế về vốn, sự bảo hộ của nhà nước, quan hệ,... mà các doanh nghiệp Nhà nước thường có không phải là yếu tố cơ bản mang lại lợi thế cạnh tranh trên thị trường DVPTKD. Nhà nước do vậy cần có quan điểm và chính sách phù hợp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia vào thị trường này vì chính họ giữ vai trò quan trọng trong quá trình nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
2.1.2. Tình hình sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp
Trước đây, theo một nghiên cứu do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, dự án Việt Đức về phát triển DNVVN và chương trình phát triển DNVVN Swisscontact thực hiện năm 2002, qua phỏng vấn hơn 1.200 DNVVN đang hoạt động tại 6 tỉnh của Việt Nam (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai) thì TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội là nơi có số lượng doanh nghiệp sử dụng DVPTKD nhiều hơn các thành phố khác. Hơn 90% thị phần DVPTKD do hai thành phố này nắm giữ, trong đó khoảng 60% số tiền được chi tiêu cho các DVPTKD thuộc về các doanh nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh. Phần lớn các DNVVN qua khảo sát đều nói rằng đã sử dụng DVPTKD ít nhất một lần. Chỉ khoảng 7% số doanh nghiệp được hỏi cho rằng chưa bao giờ sử dụng bất kỳ DVPTKD nào, trong đó Hải Phòng là thành phố chiếm tỷ lệ nhiều nhất, khoảng 30% DNVVN chưa bao giờ sử dụng các dịch vụ này.
Mức độ phát triển thị trường của từng DVPTKD cũng rất khác nhau. Dịch vụ quảng cáo và khuyến mãi cũng như các dịch vụ thông tin trên Internet được khoảng 50% các doanh nghiệp tư nhân sử dụng. Thị trường các dịch vụ kế toán và kiểm toán, dịch vụ pháp lý, dịch vụ liên quan tới máy tính, tới tổ chức và tham gia hội chợ, phần mềm thông tin quản lý tiếp cận được
một tỷ lệ đáng kể các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các dịch vụ như đào tạo, dịch vụ tư vấn, nghiên cứu thị trường, thiết kế sản phẩm, quản lý chất lượng và môi trường được rất ít doanh nghiệp sử dụng.
Cũng theo kết quả của nghiên cứu này, triển vọng tăng trưởng của thị trường DVPTKD tại Việt Nam hết sức sáng sủa. Động lực phát triển thị trường này sẽ là các doanh nghiệp mới được thành lập. Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ này sẽ gia tăng đáng kể nhờ sự phát triển kinh tế của Việt Nam, nhờ số lượng doanh nghiệp cung cấp và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ mới thành lập ngày một tăng và nhờ việc có nhiều hơn doanh nghiệp muốn sử dụng các DVPTKD để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và đảm bảo khả năng cạnh tranh một cách hiệu quả hơn.
Trong hơn 10 nhóm dịch vụ được nghiên cứu trong dự án như đào tạo, tư vấn, dịch vụ quản lý, tiếp thị, đóng gói, thiết kế sản phẩm, bảo đảm chất lượng, vận chuyển phân phối, Internet, công nghệ thông tin, máy tính, dịch vụ kế toán kiểm toán, các dịch vụ về sở hữu trí tuệ, quảng cáo,... thì nhóm doanh nghiệp sử dụng dịch vụ hỗ trợ liên quan tới quảng cáo khuyến mãi nhiều nhất với mức chi hàng năm gần 100 tỷ đồng. Loại dịch vụ phổ biến doanh nghiệp quan tâm là tham gia hội chợ triển lãm. Tuy vậy các dịch vụ quan trọng như quyền sở hữu trí tuệ, dịch vụ đào tạo, kế toán và kiểm toán rất ít được các doanh nghiệp quan tâm. Theo ông Lê Duy Bình, cán bộ cao cấp của Chương trình hỗ trợ DNVVN thì tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ này chỉ chiếm khoảng 3% - một con số quá nhỏ trong khi những dịch vụ này rất thiết thực cho doanh nghiệp [16].
Trên đây là kết quả nghiên cứu chung về tình hình sử dụng DVPTKD tại 6 tỉnh thành và những nhận định chung về một số loại hình dịch vụ nổi bật của Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ 21.
Theo khảo sát thực tế 60 doanh nghiệp của người viết khóa luận về tình hình sử dụng DVPTKD thì có 11,7% (7 doanh nghiệp) trong tổng số các
doanh nghiệp được hỏi cho biết chưa bao giờ sử dụng các DVPTKD. Có 41,7% doanh nghiệp đã sử dụng một số loại hình dịch vụ và tới 46,6% nói rằng đã sử dụng hầu hết các loại hình dịch vụ. Điều này cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp đã sử dụng DVPTKD của các doanh nghiệp Việt Nam là khá cao, dù là đã sử dụng hầu hết các dịch vụ hay chỉ là mới sử dụng một số loại hình dịch vụ. Đối với các doanh nghiệp chưa từng sử dụng dịch vụ nhưng họ đều có những nhận thức nhất định về DVPTKD. Nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp không muốn sử dụng hoặc hạn chế sử dụng dịch vụ từ các nhà cung cấp được thể hiện thông qua bảng 1:
Bảng 1: Lý do doanh nghiệp ít (hoặc không) sử dụng các loại hình dịch vụ phát triển kinh doanh
Lý do doanh nghiệp ít (hoặc không) sử dụng dịch vụ | Tỷ lệ (%) | |
1 | Không tin tưởng vào chất lượng dịch vụ | 16,7 |
2 | Không cần đến dịch vụ | 20 |
3 | Chi phí cho dịch vụ cao | 31,7 |
4 | Không hiểu rõ về dịch vụ | 25 |
5 | Không tiếp cận được dịch vụ | 10 |
6 | Lý do khác: - Doanh nghiệp không muốn tiết lộ thông tin nội bộ - Doanh nghiệp có thể tự tổ chức dịch vụ,… | 10 |
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá hiệu quả sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam - 2
- Cung Cấp Dịch Vụ Hỗ Trợ Cần Thiết Cho Các Doanh Nghiệp
- Hiệu Quả Sử Dụng Dịch Vụ Phát Triển Kinh Doanh
- Tình Hình Sử Dụng Các Loại Hình Dịch Vụ Phát Triển Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp Việt Nam
- Mức Độ Hài Lòng Của Doanh Nghiệp Sau Khi Sử Dụng Dịch Vụ
- Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Sử Dụng Dịch Vụ Phát Triển Kinh Doanh
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Nguồn: Kết quả khảo sát của người viết
Như vậy, số lượng doanh nghiệp cho rằng chi phí dịch vụ quá cao là nhiều nhất. Đối với các doanh nghiệp, nhất là các DNVVN thì nguồn lực tài chính là rất hạn chế, do đó khi doanh nghiệp quyết định sử dụng dịch vụ từ bên ngoài sẽ phải cân nhắc rất nhiều về chi phí cho dịch vụ. Sau đó là do không hiểu rõ về dịch vụ, điều này phản ánh nhận thức về DVPTKD của