Các Nghiên Cứu Về Biện Pháp Phòng, Chống Sán Lá Gan Nhỏ


người hoặc gia súc để nuôi cá có thể nhiễm sán lá gan nhỏ [55]. Do vậy, cần phải tập huấn, đào tạo và tuyên truyền để những cán bộ làm quản lý và người dân có thêm kiến thức về phòng, chống nhiễm SLGN. Sử dụng phân bắc tươi trong nuôi trồng thuỷ sản là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng nhiễm ký sinh trùng trong thuỷ sản nói chung và lây truyền SLGN nói riêng, nghiên cứu ở tỉnh Nam Định cho thấy, vẫn còn 26,7% cơ sở nuôi trồng thuỷ sản sử dụng phân bắc tươi và 10,0% cơ sở trồng trọt sử dụng phân bắc tươi chưa ủ để tưới, bón rau xanh, đây là yếu tố nguy cơ làm lan truyền các mầm bệnh ký sinh trùng trong môi trường [1].

Tại xã Mỹ Quang, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, nghiên cứu cho thấy, về kiến thức, có 47,7% có kiến thức chung về bệnh SLGN đạt; 62,7% đối tượng biết đường lây truyền, 49,2% biết được món ăn gây nhiễm bệnh SLGN là gỏi cá giếc; 61,2% có kiến thức đạt về sự nguy hại của SLGN và chỉ có 33,5% có kiến thức phòng bệnh SLGN đạt. Về thái độ, thái độ chung về bệnh SLGN của đối tượng đạt là 41,7%. Về sự nguy hại của SLGN có 46,3% đối tượng có thái độ đạt, về khả năng phòng, chống bệnh SLGN có 54,7% đối tượng có thái độ đạt. Về thực hành, có 34,7% đạt thực hành chung [68].

Qua hai nghiên cứu nói trên cho thấy, tuy khác nhau về địa điểm và thời gian nghiên cứu nhưng kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về phòng, chống nhiễm SLGN còn thấp và có mối liên quan giữa giới tính, kiến thức, thái độ, hành vi ăn gỏi cá, thực hành sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh và thực hành chung của đối tượng với tình trạng nhiễm SLGN. Nhóm có kiến thức, thái độ, thực hành đạt yêu cầu thì có tỉ lệ nhiễm SLGN thấp hơn nhóm không đạt yêu cầu [39, 68]. Do vậy, việc đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục và truyền thông về phòng, chống SLGN là cần thiết nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống SLGN cho cộng đồng.

- Ăn gỏi cá, cá sống hoặc chưa nấu chín

Ở Việt Nam, vùng đồng bằng Bắc Bộ có tập quán ăn gỏi cá sống như cá chép, cá mè, cá trôi dưới dạng những lát mỏng. Một số tỉnh miền trung có phong tục ăn cá giếc sống dưới hình thức ăn sống cả con cá đang bơi trong chậu, còn gọi là


gỏi sinh cầm [9, 12]. Thói quen ăn uống được hình thành dưới các điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể [101]. Điều tra 1.612 người tại 7 xã của 3 huyện Hải Hậu, Nghĩa Hưng và Giao Thủy, tỉnh Nam Định có tới 54,8% đã từng ăn gỏi cá. Tỉ lệ ăn gỏi cá ở nam (80,7%) cao hơn nữ (29,8%). Gỏi cá là món ăn khoái khẩu của nhân dân ở vùng này, có tới 41% người cho là món ăn ngon miệng; có 26,7% là do thói quen và 32,6% là do mát, bổ. Loài cá được ưa thích làm gỏi cá để ăn tại các điểm điều tra là cá mè (51,0%). Đối với nguồn gốc cá dùng ăn gỏi, kết quả nghiên cứu cho thấy có 71,2% số người được hỏi trả lời lấy cá ở ao nhà làm gỏi để ăn, cá mua ở chợ làm gỏi để ăn chỉ chiếm 12,8%. Có 4,9% làm gỏi cá từ cá nước biển hoặc cá nước lợ, có 35,1% số người được hỏi cho biết đã từng ăn cá nấu chưa chín (lẩu cá, cá nướng, cá nhúng, cá hấp, cá rán chưa chín) [46]. Tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng, tỉ lệ đối tượng được điều tra có thói quen ăn tôm, cua, cá chưa nấu chín là 62,16% [17]. Tỉ lệ ăn gỏi cá của người dân tại 2 xã Yên Lộc và xã Tân Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình là 75% [62]; Tỷ lệ cán bộ quản lý và người dân tại 4 xã ven biển huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã từng ăn gỏi cá lần lượt là 90,2% và 11,4% [58]. Tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá năm 2004, tỉ lệ ăn gỏi cá là 68,8% [39], năm 2014 tỉ lệ ăn gỏi cá là 45,5% [66]. Tại xã Mỹ Quang, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, tỉ lệ ăn gỏi cá của người dân ở xã Mỹ Quang là 37,7%, có 62,1% có tần số ăn gỏi cá từ 5 lần trở lên trong năm [68]. Thói quen ăn gỏi cá làm tăng nguy cơ nhiễm C. sinensis gấp 53 lần; có 3% người được phỏng vấn không ăn gỏi cá nhưng vẫn nhiễm SLGN điều này có thể do sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn dùng để ăn ngay. Khuyến nghị của nghiên cứu là sử dụng bộ câu hỏi điều tra đơn giản về thói quen ăn uống có thể được sử dụng để sàng lọc những người sống trong vùng đang lưu hành bệnh SLGN, cho phép điều trị quy mô rộng với praziquantel để tránh các tốn kém về thời gian và kinh phí do phải xét nghiệm phân tìm trứng SLGN, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng quá trình chế biến thức ăn và ăn uống hợp vệ sinh có tầm quan trọng trong việc phòng, chống bệnh SLGN [64].

- Sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín


Năm 2010, một khảo sát của Quỹ nhi đồng liên hiệp quốc, cho thấy ở 64 tỉnh, thành phố ở Việt Nam có 46% người dân sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn đã nấu chín, thức ăn dùng ăn ngay [132]. Một điều tra khác tại Đắc Lắc, có 73 người không ăn gỏi cá nhưng cũng nhiễm SLGN. Như vậy, tuy không ăn gỏi cá nhưng nếu ăn cá chưa nấu chín kỹ hay dùng chung dụng cụ chế biến cá sống như dao, thớt v.v. với thức ăn dùng ăn ngay cũng có thể bị nhiễm SLGN [19].

- Sử dụng phân tươi của người, gia súc để bón ruộng, nuôi cá

Nhiều cộng đồng dân cư ở Việt Nam, hiện vẫn còn tập quán dùng phân người, phân gia súc để nuôi cá và bón cho cây trồng. Tập quán này càng nguy hiểm ở những cộng đồng có nhiều người bị bệnh SLGN và ăn gỏi cá. Vì tập quán này đã chủ động làm phát tán bệnh SLGN. Tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, trong tổng số 241 hộ có sử dụng phân chỉ có 14,5% xử lý phân hợp vệ sinh. Trong đó, số hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh chỉ chiếm 29,6% [39]. Nghiên cứu tại 3 huyện ven biển tỉnh Nam Định cho thấy tỉ lệ hộ gia đình có hố xí loại dội nước hợp vệ sinh chiếm 39,3%, vẫn còn 1,7% hộ gia đình dùng phân người và 9,9% hộ gia đình sử dụng phân chuồng ủ chưa kỹ để nuôi cá [46].

1.7. Các nghiên cứu về biện pháp phòng, chống sán lá gan nhỏ

Phòng, chống sán lá gan nhỏ thường liên quan đến việc kết hợp hai hoặc nhiều hơn các biện pháp bao gồm TTGDSK, nâng cao sức khoẻ, điều trị và cải thiện môi trường [138]. Chiến lược phòng, chống SLGN được Trung tâm phòng, chống bệnh tật (CDC) của Mỹ, WHO và Uỷ ban kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ quốc gia của Trung Quốc (NHFPC) đề xuất như sau:.

Bảng1.1. Chiến lược dự phòng và kiểm soát bệnh sán lá gan nhỏ


Tổ chức

đề xuất

Nội dung

Tài liệu tham

khảo

CDC

Không ăn cá nước ngọt sống, chưa nấu chín kỹ, nấu chín cá (Nhiệt độ khoảng > 63oC), làm lạnh

(≤ -20oC trong 7 ngày; ≤ -35oC trong 15 giờ)

http://www.cdc.gov

/parasites/clonorchi s/faqs.html [80]

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.

Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định năm 2009 - 2012 - 5


Tổ chức

đề xuất

Nội dung

Tài liệu tham

khảo

WHO

Đề nghị các biện pháp y tế công cộng vệ sinh thú y và thực hành an toàn thực phẩm để giảm nguy cơ nhiễm SLGN, tăng cường an toàn và hiệu quả của thuốc điều trị giun sán để kiểm soát sự hoành

hành của bệnh tật.

http://www.who.int

/mediacentre/factsh eets/fs368/en/[137]

NHFPC

Tăng cường độ bao phủ về các loại thuốc điều trị giun sán chuẩn và nhà tiêu hợp vệ sinh; làm tăng tỉ lệ kiến thức về phòng, chống ký sinh trùng và hành vi bảo vệ sức khỏe, nâng cao trình độ của cán bộ y tế tuyến cơ sở.

http://www.nhfpc.g ov.cn/zhuzhan/zcjd

/201304/cba68ffe5 44c4902bd48b1cd7 d41e733.shtml

[114]

- Biện pháp điều trị người nhiễm sán lá gan nhỏ

Bệnh SLGN có thể được điều trị hiệu quả với praziquantelnếu được chẩn đoán sớm và nhận dạng chính xác loài SLGN [84].

Theo khuyến cáo của WHO, điều trị với liều 25 mg/kg ba lầnmỗi ngày trong hai ngày liên tiếp có thể đạt được tỷ lệ chữa khỏi93,9-100% [100, 139].

Ở Trung Quốc,mộtdự án kiểm soát bệnh SLGN trong vùng lưu hành ở Trung Quốctrong giai đoạn 2001-2004, các nhóm điều trị chọn lọc bằng thuốc là các cư dân đã được xét nghiệm có trứng ở trong phân và những người được xét nghiệm dương tính này được điều trị với liều 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày với thuốc praziquantel cách khoảng 5 giờ mỗi liều trong 1 ngày cho tất cả các cư dân được điều trị trong các nhóm điều trị hàng loạt. Trong các vùng dịch nặng, điều trị hàng loạt hai lần cho tất cả các cư dân vào năm 2001 và 2003 đã giảm tỉ lệ hiện mắc từ 69,5% xuống 18,8%, trong khi điều trị hàng loạt hàng năm 4 lần đã giảm tỉ lệ hiện mắc từ 48,0% trong năm 2001 xuống 8,4% năm 2004. Điều trị hàng năm có chọn lọc cho các đối tượng dương tính với trứng đã giảm tỉ lệ dương tính với trứng từ 54,9% trong năm 2001 xuống 15,0% trong năm 2004 và từ 73,2% trong năm 2001 xuống còn 12,3% năm 2004. Điều trị chọn lọc 6 tháng một lần giảm một cách


đáng chú ý tỉ lệ hiện mắc từ 59,5% năm 2001 xuống còn 7,5% năm 2004. Tất cả những đối tượng được điều trị nhắc lại đều đã giảm tỉ lệ trứng/gam phân một cách đáng chú ý. Điều trị hàng loạt hàng năm và điều trị có chọn lọc 6 tháng một lần đã làm giảm tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ tái nhiễm, tỉ lệ giảm trứng xuống nhiều hơn so với điều trị có chọn lọc hàng năm. Trong các vùng dịch vừa phải, tỉ lệ dương tính với trứng là 24,8% và 29,7% năm 2001 nhưng là 1,9% và 1,3% sau 2 hoặc 3 lần điều trị chọn lọc. Tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ mắc phải và tỉ lệ tái nhiễm trong một vùng dịch tễ vừa phải là thấp hơn một cách đáng kể so với những tỉ lệ này của các vùng dịch tễ nặng. Nghiên cứu cho thấy,điều trị hàng loạt nhắc lại hoặc điều trị chọn lọc với praziquantel sau 6 đến 12 tháng nhắc lại là có hiệu quả cao cho phòng chống bệnh SLGN trong các vùng dịch nặng. Trái lại, điều trị chọn lọc 1 hoặc 2 lần cùng với giáo dục sức khỏe là có hiệu quả ở những vùng dịch vừa phải [87].

Ở Triều Tiên, một chương trình liên quan đến điều trịpraziquantel lặp đi lặp lại cách nhau 6 tháng đã được thực hiện trong một làng, tỉ lệ nhiễm SLGN đã giảm từ 22,7%(năm 1994) xuống 6,3% (năm 1998), nhưng chỉ điều trị là không đủ để đạt được kiểm soát hoàn toàn được bệnh SLGN [84]. Đôi khi, hiệu quả của praziquantel chữa bệnh SLGN cho người nghèo đã thất bại và không làm giảm tỉ lệ nhiễm SLGN, mặc dù đã được điều trị lặp đi lặp lại lâu dài [131]. Ở Triều Tiên, tỉ lệ hiện mắc C. sinensis vẫn cao bởi vì phát hiện ca bệnh trong cộng đồng là khó khăn và các trường hợp đã được phát hiện thường không được chữa khỏi hoàn toàn do điều trị thất bại. Nghiên cứu phòng, chống SLGN bằng điều trị thuốc praziquantel có nhắc lại sau 6 tháng, qua xét nghiệm phân, tỉ lệ dương tính với trứng sán là 22,7%, nhưng đã giảm xuống 19,6% sau 6 tháng, 15,1% sau 12 tháng, 12,2% sau 18

tháng, 6,3% sau 24 tháng, 11,4% sau 30 tháng và 6,3% sau 42 tháng kể từ khi bắt đầu điều trị bằng praziquantel nhắc lại [93].

Ở Lào, một nghiên cứu tiến hành năm 2006-2010 trên 217 bệnh nhân đến khám bệnh tại khoa Truyền nhiễm bệnh viện 103 Viêng Chăn, Lào, nhóm 1 theo phác đồ A (praziquantel 75mg/kg cho 1 ngày chia 3 lần, uống cách nhau 6-8 giờ), nhóm 2 theo phác đồ B (praziquantel 25mg/kg/1ngày cho 3 ngày liên tục, uống vào 1 thời điểm nhất định trong ngày). Tỉ lệ sạch trứng ở phác đồ A tại các thời điểm:


sau 7 ngày, sau 1 tháng, sau 3 tháng, sau 6 tháng là: 90,74%; 95,37%; 96,30% và

97,22%, trong khi phác đồ B là: 72,48%; 71,56%; 88,99% và 87,16%. Các bệnh nhân điều trị với 2 phác đồ gặp các tác dụng không mong muốn như: nóng bừng, mệt mỏi, buồn nôn, sôi bụng, chóng mặt, đau bụng và đau đầu. Phác đồ A với các tỉ lệ tương ứng: 54,63%; 30,56%; 28,70%; 27,78%; 21,30%; 12,04% và 8,33%. Phác

đồ B: 55,95%; 44,95%; 24,77%; 26,61%; 25,69%; 9,17% và 5,50%. Hiệu quả điều

trị phác đồ A tại ở 3 trường học huyện Champhon, Savanakhett, Lào: tỉ lệ sạch trứng sau 7 ngày, sau 1 tháng, sau 3 tháng, sau 6 tháng là: 74,46%; 94,81%; 82,25% và 48,48% Các tác dụng không mong muốn xẩy ra nhẹ và thoáng qua; giảm dần ở những lần sau uống và mất đi không quá 60 phút sau khi dùng thuốc [50].

Ở Việt Nam, năm 1997, một nghiên cứu được tiến hành ở miền Bắc Việt Nam chỉ đạt 29% tỷ lệ khỏi bệnh sau khi điều trị bệnh nhân SLGN với praziquantel 25 mg/kg x 1 lần/ngày x 3 ngày; có thể do liều lượng này của praziquantel là không phù hợp [131]. Ngoài ra, tác dụng phụ thoáng qua bao gồm chóng mặt, nhức đầu,nôn, buồn ngủ, tiêu chảy, nhức đầu,và dị ứng có thể xảy ra sau khi uống praziquantel [80,106,120]. Nghiên cứu sử dụng liều praziquantel 25mg/kg chia 3 lần/ngày x 3 ngày có kết quả sạch trứng 80-100% [10]. Điều trị bằng thuốc praziquantel liều 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày có hiệu quả cao trong điều trị C. sinensis tại thực địa với tỉ lệ sạch trứng trên 96% và giảm trứng trên 99% sau can thiệp 6 tháng. Phác đồ trên áp dụng cho cộng đồng là an toàn và ổn định qua nhiều năm, dễ áp dụng và được cộng đồng chấp nhận [62]. Nghiên cứu về hiệu quả điều trị của thuốc đặc hiệu cho thấy việc điều trị sán lá gan bằng delagyl 0,5g/ngày x 10 ngày x

2 đợt, sạch trứng 45%; cloxyl 3g/ngày x 5 ngày, sạch trứng 70%; azinox 25mg/kg/ngày x 3 ngày ngày, sạch trứng 51%; medamin 10mg/kg/ngày x 5 ngày, sạch trứng 19%; mebendazole 10mg/kg/ngày x 5 ngày, sạch trứng 11,6%; artemisinin 500mg/ngày x 5 ngày, sạch trứng 28,6%; Praziquantel 25mg/kg/ngày x 3 ngày, khỏi bệnh 65-91%. Can thiệp một phần bằng điều trị đặc hiệu, làm giảm đáng kể bệnh sán lá gan. Mỗi năm điều trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ 27,4% xuống còn 23,9% sau một năm và còn 11,8% sau hai năm. Cường độ nhiễm giảm từ 1167 trứng/gam phân xuống còn 671 trứng/g phân sau một năm và còn 431


trứng/g phân sau 2 năm. Hai năm điều trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ 29,6% xuống còn 19,1% sau hai năm và còn 10,3% sau bốn năm, cường độ nhiễm thay đổi không đáng kể (448 trứng/gam phân so với 437 trứng/gam phân). Ba năm điều trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ 36,9% xuống còn 29,2%, cường độ nhiễm thay đổi đáng kể (303 trứng/gam phân so với 321 trứng/ gam phân) [20]. Theo nghiên cứu của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương các thuốc thuộc nhóm Benzimidazole được dùng trong điều trị SLGN với kết quả chưa cao, cụ thể là: medamin 10mg/kg/ngày x 5 ngày, kết quả sạch trứng 19%; mebendazole 10mg/kg/ngày x 5 ngày, kết quả sạch trứng 11,6%; albendazole 400mg/kg/ngày x 3 ngày sau 6 tháng, kết quả sạch trứng 37,5%, tỉ lệ giảm trứng 45,6% [22]. Praziquantel liều 25 mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày có hiệu quả cao trong điều trị SLGN C. sinensis tại thực địa với tỉ lệ sạch trứng trên 96% và giảm trứng trên 99% sau can thiệp 6 tháng [62].

Bảng 1.2. Các nghiên cứu về phác đồ và thuốc điều trị sán lá gan nhỏ


Thuốc điều trị

Liều dùng

Thông tin

về bệnh

Hiệu quả

điều trị

Tham

khảo

Praziquantel

Dùng đường uống,


18,8mg/kg x 2 lần/ngày x 2 ngày

Đồng nhiễm giun khác

Tỉ lệ khỏi bệnh (TLKB):

56,8% (lần

1) và 75%

(lần 2).

[141]

Dùng đường uống,


25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày

Không nhiễm giun khác

TLKB: 56%

[119]

Dùng đường uống,


25mg/kg x 3 lần

Không nhiễm

giun khác

TLKB: 62,9%

[86]


Thuốc điều trị

Liều dùng

Thông tin

về bệnh

Hiệu quả

điều trị

Tham

khảo

Tribendimidine

Dùng đường uống,


400 mg dùng một lần duy nhất

Đồng nhiễm giun khác

TLKB: 50%

(lần 1);

78,1% (lần

2).

[141]

Dùng đường uống,


200 mg x 2 lần x 1 ngày

Đồng

nhiễm giun khác

TLKB: 33%

[141]

Dùng đường uống,


400 mg dùng một lần duy nhất

Không nhiễm

giun khác

TLKB: 44%

[119]

Mebendazole

Dùng đường uống,


400 mg dùng một lần duy nhất

Đồng nhiễm giun khác

TLKB: 0%

(lần 1);

78,1% (lần

2).

[141]

- Biện pháp vệ sinh ăn uống

Bệnh SLGN liên quan chủ yếu đến thói quen ăn uống bắt nguồn từ truyền thống văn hóa, xã hội. Do đó, để phòng bệnh cần có phương pháp mới để truyền thông cho cộng đồng đối với việc lựa chọn thực phẩm, chuẩn bị thực phẩm và chế biến thực phẩm. Chẩn đoán và điều trị chỉ là một phần trong việc kiểm soát bệnh SLGN bởi vì bản thân chẩn đoán và điều trị sẽ chỉ có một ảnh hưởng trong một thời gian ngắn nếu thiếu một chương trình dự phòng tốt[82].

Ở Thái Lan, một chương trình phòng, chống SLGN trong 10 năm không kể những cố gắng khác để loại bỏ thói quen ăn gỏi cá ở đông bắc Thái Lan đã được thực hiện để giảm việc thường xuyên ăn cá sống xuống còn một nửa nhưng việc thỉnh thoảng người dân vẫn ăn cá sống là vẫn còn không thay đổi được [100]. Đây là lý do cho nhiễm SLGN tồn tại dai dẳng trong cộng đồng và tỉ lệ tái nhiễm đối với SLGN vẫn ở mức cao sau điều trị nếu không có các biện pháp truyền thông, giáo

Xem tất cả 204 trang.

Ngày đăng: 28/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí