Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định năm 2009 - 2012 - 2


Bảng 3.14. Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, kiến thức, thái độ phòng,

chống sán lá gan nhỏ và tình trạng nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân

84

Bảng 3.15. Phân tích mối liên quan giữa hành vi nguy cơ nhiễm SLGN với

tình trạng nhiễm sán lá gan nhỏ

85

Bảng 3.16. Kết quả đào tạo nhân lực cho công tác phòng, chống sán lá gan

nhỏ

87

Bảng 3.17. Hoạt động can thiệp thông qua kênh truyền thông trực tiếp tại

thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

88

Bảng 3.18. Hoạt động can thiệp thông qua kênh truyền thông gián tiếp

tại thị trấn Rạng Đông, tỉnh Nam Định

90

Bảng 3.19. Hiểu biết của người dân về phòng, chống SLGN trước và sau

can thiệp

91

Bảng 3.20. Thái độ của người dân về phòng, chống SLGN trước và sau can

thiệp

92

Bảng 3.21. Thực hành của người dân về một số biện pháp nhằm phòng,

chống sán lá gan nhỏ trước và sau can thiệp

94

Bảng 3.22. Tỉ lệ sạch trứng sán lá gan nhỏ sau điều trị thuốc praziquantel

95

Bảng 3.23. Tỉ lệ giảm trứng sán lá gan nhỏ sau điều trị thuốc praziquantel

95

Bảng 3.24. Tỉ lệ tái nhiễm sán lá gan nhỏ trong 2 năm can thiệp

96

Bảng 3.25. Tỉ lệ mới nhiễm sán lá gan nhỏ sau 24 tháng can thiệp

96

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.

Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định năm 2009 - 2012 - 2


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 3.1. Tỉ lệ nhiễm SLGN của người từ 01 tuổi trở lên (n =400)

60

Biểu đồ 3.2. Tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ ở các loài cá nước ngọt

62

Biểu đồ 3.3. Tỉ lệ người dân có nghe nói về sán lá gan nhỏ (n =340)

70

Biểu đồ 3.4. Tỉ lệ người dân có biết về bệnh sán lá gan nhỏ theo nhóm tuổi

71

Biểu đồ 3.5. Tỉ lệ người dân biết về tác hại của bệnh SLGN

72

Biểu đồ 3.6. Hiểu biết về sự tái nhiễm của bệnh SLGN

72

Biểu đồ 3.7. Phương tiện truyền thông về SLGN nhỏ đến người dân trước

can thiệp

74

Biểu đồ 3.8. Tỉ lệ người dân có đưa ra lời khuyên người khác không nên ăn

gỏi cá, cá nấu chưa chín

76

Biểu đồ 3.9. Thực hành của người dân trước can thiệp khi nghi ngờ bị bệnh

sán lá gan nhỏ theo nhóm tuổi

79

Biểu đồ 3.10. Thực hành của người dân khi nghi ngờ nhiễm sán lá gan nhỏ

trước và sau can thiệp

93


DANH MỤC HÌNH


Hình 1.1. Chu kỳ phát triển của sán lá gan nhỏ

7

Hình 1.2. Các tỉnh, thành phố có người nhiễm sán lá gan nhỏ ở Việt

Nam

14

Hình 1.3. Khung lý thuyết của nghiên cứu

37

Hình 2.1. Thiết kế nghiên cứu

39

Hình 2.2. Mô hình tổ chức của chương trình can thiệp phòng, chống sán

lá gan nhỏ tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

51

Hình 3.1. C. sinensis trưởng thành thu thập từ bệnh nhân là đối tượng nghiên cứu được điều trị tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng,

tỉnh Nam Định

65

Hình 3.2. So sánh trình tự 446 nucleotid và 148 acid amin trong đoạn gen cox1 của SLGN trưởng thành Clonorchis spp trên người tại Nam Định (CsNgND) với Clonorchis sinensis Trung Quốc (CsCN), C. sinensis Hàn Quốc (CsKor) và đồng thời so sánh với các loài khác như Fasciola gigantica ở người Việt Nam (FgVN) và Fasciola hepatica ở

Australia (FhAus)

67

Hình 3.3. Vị trí của C. sinensis Việt Nam trong cây phả hệ (C. sinensis

Việt Nam nằm cùng nhóm với C. sinensis Trung Quốc và Hàn Quốc)

67

Hình 3.4. Ấu trùng nang sán lá gan nhỏ thu thập từ cá nước ngọt nuôi tại ao cá của đối tượng tham gia nghiên cứu can thiệp ở thị trấn Rạng

Đông

68

Hình 3.5. Giải trình tự gen Cox1 của ấu trùng nang SLGN

(metacercaria) trên cá so sánh với chủng chuẩn Việt Nam và quốc tế

69


ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh sán lá gan nhỏ (SLGN) do Clonorchis sinensis (C.sinensis), là một bệnh ký sinh trùng truyền qua thực phẩm và là một trong những bệnh lây truyền từ động vật sang người phổ biến nhất. Trên thế giới, ước tính có hơn 200 triệu người có nguy cơ nhiễm C.sinensis, trên 15 triệu người đã bị nhiễm C.sinensis và 1,5-2 triệu người có biểu hiện triệu chứng hoặc biến chứng do nhiễm SLGN gây ra [96, 118, 92]. Bệnh SLGN hiện mắc chủ yếu ở các nước Châu Á và các khu vực như Triều Tiên, Trung Quốc, phía bắc Việt Nam, vùng phía đông nước Nga [110,120,121]. Ngoài ra, người di cư hay khách du lịch đến từ các vùng dịch tễ SLGN sẽ làm tăng nguy cơ lây truyền bệnh đến các nước khác [120]. Người và động vật bị nhiễm C. sinensis do ăn phải cá sống hoặc nấu chưa chín có chứa ấu trùng SLGN [96]. Nhiễm

C. sinensiscó mối liên quan chặt chẽ với ung thư biểu mô đường mật trong gan (Cholangiocarcinoma), xơ gan và các bệnh về gan mật khác[148, 126,129]. Ước tính có khoảng 5000 trường hợp ung thư biểu mô đường mật trong gan do nhiễm C. sinensis có thể xẩy ra hàng năm trong thập niên tới tại khu vực Đông Nam Á [118].

C. sinensis được xếp vào nhóm I tác nhân sinh học gây ung thư bởi Cơ quan nghiên cứu về ung thư quốc tế (IARC) thuộc Tổ chức Y tế thế giới(WHO) [75]. Do vậy, nhiễm SLGN là một vấn đề y tế cộng cộng nghiêm trọng đáng quan tâm trong các vùng dịch tễ bệnh SLGN.

Các triệu chứng lâm sàng của người nhiễm SLGN được phát hiện tại cộng đồng thường không rõ đối với những người có cường độ nhiễm SLGN thấp, chủ yếu là triệu chứng rối loạn tiêu hoá [35]. Phương pháp xét nghiệm phân tìm trứng SLGN là đáng tin cậy để chẩn đoán nhiễm SLGN [94]. Tuy nhiên, trứng của C. Sinensis dễ dàng bị nhầm lẫn với trứng của sán khác như Opisthorchiidae, Lecithodendriidae hoặc Heterophyidae) [1, 96]. Do vậy, phương pháp xác định loài bằng sinh học phân tử là cần thiết giúp cho việc sử dụng đúng thuốc điều trị và triển khai các hoạt động can thiệp phòng, chống SLGN có hiệu quả trong cộng đồng.

Ở Việt Nam, hiện có trên 7 triệu người có nguy cơ cao nhiễm SLGN trong đó khoảng 1 triệu người nhiễm SLGN [30]. Bệnh SLGN là bệnh lưu hành địa phương có liên quan đến thói quen ăn gỏi cá và được phân bố ở ít nhất tại 32 tỉnh, thành


phốtrong cả nước, trong đó tỉ lệ bệnh SLGN lưu hành cao ở các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Phú Yên, Bình Định [7, 24, 61].

Truyền thông, giáo dục sức khỏe (TTGDSK) phòng, chống các bệnh xã hội, bệnh lưu hành địa phươnglà một trong những biện pháp được WHO khuyến cáo và đã mang lại hiệu quả như chương trình phòng, chống bệnh sốt rét, sốt xuất huyết Dengue, chương trình phòng,chống bệnh tiêu chảy trẻ em.v.v.

Việc sử dụng thuốc điều trị SLGN bằng praziquantel là bước tiến quan trọng trong phòng, chống bệnh SLGN ở Việt Nam [4,62]. Các hoạt động phòng, chống SLGN ở Việt Nam đã triển khai ở một số địa phương bằng điều trị praziquantel cho những người nhiễm SLGN, biện pháp này, tuy có làm giảm tỉ lệ nhiễm SLGN nhưng đến nay nhiễm SLGN vẫn còn là vấn đề sức khỏe của cộng đồng ở những địa phương có tập quán ăn gỏi cá do nhiều nguyên nhân trong đó có nhận thức và thực hành phòng, chống SLGN của người dân trong cộng đồng còn thấp [16], nguồn nhân lực và vật lực cho phòng, chống SLGN nhiều nơi chưa được đầu tư như ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Do vậy, làm thế nào để phòng, chống SLGN có hiệu quả trong khi nguồn nhân lực và vật lực cho triển khai các hoạt động phòng, chống SLGN chưa có, đây là câu hỏi cần được giải quyết. Để trả lời cho câu hỏi trên, trong nghiên cứu này chúng tôi đã triển khai mô hình các hoạt động can thiệp cộng đồng phòng, chống SLGN bằng TTGDSK thông qua việc lồng ghép nội dung phòng, chống SLGN vào chương trình an toàn thực phẩm và lồng ghép vào hoạt động của các tổ chức đoàn thể trên địa bàn nhằm xã hội hoá công tác phòng, chống SLGN, tăng cường vai trò chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong việc phối hợp cùng với ngành y tế truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống SLGN nhằm giảm tỉ lệ nhiễm SLGN trong cộng đồng, góp phần giảm tải cho y tế tuyến trên trong việc điều trị các bệnh lý do nhiễm SLGN gây ra.

Thị trấn Rạng Đông là một thị trấn ven biển thuộc huyện Nghĩa Hưng nằm trong vùng lưu hành bệnh SLGN của tỉnh Nam Định [46, 47] có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc lưu hành bệnh SLGN, người dân địa phương có tập quán ăn gỏi cá, điều kiện sinh hoạt, canh tác còn lạc hậu và hiện tại chưa có nghiên


cứu can thiệp nào về phòng, chống SLGN cho người dân địa phương. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định năm 2009 - 2012”nhằm tìm ra giải pháp can thiệp phòng, chống SLGN có hiệu quả cho cộng đồng.


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU


1. Xác định tỉ lệ nhiễm và loài sán lá gan nhỏ ở người và ở cá nước ngọt nuôi tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

2. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ và một số yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

3. Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ ở người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định giai đoạn 2009-2012.


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Lịch sử bệnh sán lá gan nhỏ

Clonorchis sinensis (C.sinensis) được Mc.Conell tìm ra đầu tiên năm 1875, trên tử thi người Trung Quốc ở Calcutta, Ấn Độ [5]. Năm 1907 và năm 1912, Loss và Kobayashi dựa vào hình thái học của loài sán này, thống nhất lấy tên là Clonorchis sinensis. Năm 1910, Kobayashi đã xác định được vật chủ trung gian thứ hai của C.sinensis là họ cá chép Cyprinidae và năm 1918 Muto xác định được vật chủ trung gian thứ nhất là ốc nước ngọt, những khám phá này đã làm sáng tỏ vòng đời của C.sinensis. Năm 1927 Faust và Khaw đã nghiên cứu sinh thái và dịch tễ học của C.sinensis ở Trung Quốc. Từ đó nhiều nhà khoa học nghiên cứu dịch tễ, bệnh học, chẩn đoán, điều trị và phân bố càng ngày càng sâu và rộng về SLGN [29, 61].

Tại Việt Nam, C.sinensis ở người được Grall phát hiện và thông báo năm 1887. Theo nghiên cứu của Rim năm 1982, bệnh SLGN lưu hành cao ở vùng đồng bằng Bắc bộ như các tỉnh, thành phố gồm Hải Phòng, Hà Nội có nơi tỉ lệ nhiễm tới 70% [5, 79].

Theo điều tra của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, từ năm 1976 đến năm 2012, ít nhất có 32 tỉnh, thành phố có bệnh SLGN lưu hành với tỉ lệ rất khác nhau, có nơi tỉ lệ nhiễm trên 30% như các tỉnh Nam Định, Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội), Thanh Hoá, Phú Yên, Bình Định và lưu hành trên toàn tỉnh như ở Hoà Bình [36, 11, 29, 61]. Đặc điểm phân bố SLGN ở Việt Nam có tính khu vực: các tỉnh miền Bắc nhiễm chủ yếu là C.sinensis, các tỉnh miền trung Tây Nguyên, Nam bộ nhiễm Opisthorchis viverrini (O. viverrini) [7].

1.2. Đặc điểm ký sinh trùng học của sán lá gan nhỏ

1.2.1. Hình thể sán lá gan nhỏ

Sán lá gan nhỏ C. sinensis có hình lá, thân dẹt, màu đỏ nhạt, phần đầu hình ăng ten, phần cuối có hình tròn dài 10-20 mm, rộng 2-4 mm với lớp kitin phẳng. Tuy nhiên, kích thước SLGN thay đổi theo lứa tuổi, theo loài của vật chủ, theo số lượng của ký sinh trùng trong vật chủ và theo vị trí ký sinh của nó trong những ống mật lớn hay nhỏ. Ống tiêu hoá chạy dọc hai bên thân và là ống tắc, không nối thông với nhau. SLGN

Xem tất cả 204 trang.

Ngày đăng: 28/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí