Một cách tổng quát: “ Dự án đầu tư là một tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó trong một thời gian xác định (DAĐT trực tiếp).”
Như vậy DAĐT không phải là một ý định hay phác thảo sơ bộ mà là một đề xuất có tính cụ thể và mục tiêu rõ ràng nhằm biến các cơ hội đầu tư thành những quyết định cụ thể. (Theo TS Phạm Thị Hà [2005], Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội).
1.1.2. Vai trò của dự án đầu tư
- Đối với Nhà nước: DAĐT cho biết được khả năng và mức độ đóng góp của dự án vào việc thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, là cơ sở để áp dụng các chính sách ưu đãi hoặc chia sẻ rủi ro đối với nhà đầu tư.
- Đối với các định chế tài chính: DAĐT là cơ sở để NH thẩm định, ra quyết định đầu tư và quyết định tài trợ cho dự án.
- Đối với chủ đầu tư: DAĐT là cơ sở để xin phép được đầu tư và giấy phép hoạt động; xin phép nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị; xin gia nhập các khu chế xuất, khu công nghiệp; xin vay vốn của các định chế tài chính trong và ngoài nước; kêu gọi góp vốn hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Ngân hàng chỉ cho vay các dự án có tính khả thi về mặt tài chính, có lợi nhuận… Do đó, các NH sẽ yêu cầu các chủ đầu tư nộp cho ngân hàng DAĐT cùng với các hồ sơ cần thiết, ngân hàng sẽ tiến hành tổng hợp và thẩm định tài chính dự án để đưa ra những kết luận về tính khả thi của dự án.
1.1.3. Phân loại dự án đầu tư
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư vay vốn tại ngân hàng tmcp á châu - chi nhánh Huế - 1
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Vay Vốn Của Nhtm
- Cơ Cấu Tổ Chức Và Chức Năng Của Các Phòng Ban Tại Chi Nhánh
- Thẩm Định Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Hiệu Quả Tài Chính Dự Án
- Đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư vay vốn tại ngân hàng tmcp á châu - chi nhánh Huế - 6
- Đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư vay vốn tại ngân hàng tmcp á châu - chi nhánh Huế - 7
Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.
Tùy theo tiêu thức phân loại mà có các cách phân loại DAĐT khác nhau:
1.1.3.1. Căn cứ vào mối quan hệ giữa các hoạt động đầu tư:
- Dự án độc lập với nhau: Là những dự án có thể tiến hành đồng thời hay nói cách khác dự án độc lập nhau là các dự án không cùng mục tiêu hoặc việc ra quyết định lựa chọn dự án này không ảnh hưởng đến việc lựa chọn những dự án còn lại.
- Dự án loại trừ nhau (thay thế): Là những dự án không thể tiến hành đồng thời hay nói cách khác đó là những dự án có cùng mục tiêu nhưng cách thức thực hiện khác nhau. Nếu hai dự án loại trừ nhau thì khi ra quyết định thực hiện dự án này sẽ loại bỏ việc thực hiện dự án kia.
Dự án bổ sung (phụ thuộc): Các dự án phụ thuộc nhau chỉ có thể thực hiện cùng lúc với nhau. Ví dụ : dự án khai thác mỏ và dự án xây dựng đường sắt để vận chuyển khoáng sản.. (Theo TS Phạm Thị Hà [2005], Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội)
1.1.3.2. Căn cứ loại hình dự án: Dự án được phân thành dự án xã hội, dự án kinh tế, dự án tổ chức, dự án kỹ thuật, dự án hỗn hợp.
1.1.3.3. Căn cứ vào cơ cấu ngành gồm : Dự án đầu tư phát triển công nghiệp, đầu tư
phát triển nông – lâm – ngư nghiệp, đầu tư phát triển dịch vụ.
1.1.3.4. Căn cứ vào quy mô và tầm quan trọng của dự án :
a) Các dự án đầu tư thuộc nhóm A:
- Dự án đầu tư thuộc phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị xã hội quan trọng, thành lập và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp mới, không kể mức vốn đầu tư.
- Dự án đầu tư sản xuất chất độc hại, chất nổ, không phụ thuộc vào quy mô vốn đầu
tư.
- Dự án đầu tư thuộc các ngành công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hóa chất, phân
bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu cảng biển, cảng song, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ có số vốn đầu tư trên 600 tỷ đồng.
- Dự án đầu tư thuộc các ngành thủy lợi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BOT trong nước,
xây dựng khu nhà ở, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt có số vốn đầu tư trên 400 tỷ đồng.
- Dự án đầu tư thuộc hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới, các dự án thuộc các ngành công nghiệp nhẹ như sành, sứ, thủy tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mua sắm thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông, lâm sản có số vốn đầu tư trên 300 tỷ đồng.
- Dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác có số vốn đầu tư trên 200 tỷ đồng.
b) Các dự án đầu tư thuộc nhóm B:
- Dự án đầu tư thuộc ngành công nghiệp điện, dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu cảng biển, cảng song, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ có số vốn đầu tư từ 30 đến 600 tỷ đồng.
- Dự án đầu tư thuộc các ngành thủy lợi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, xây dựng khu nhà ở, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt có số vốn đầu tư từ 20 đến 400 tỷ đồng.
- Dự án đầu tư thuộc hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới, các dự án thuộc các ngành công nghiệp nhẹ như sành, sứ, thủy tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mua sắm thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông, lâm sản có số vốn đầu tư từ 15 đến 300 tỷ đồng.
- Dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác có số vốn đầu tư từ 7 đến 200 tỷ đồng.
c) Các dự án đầu tư thuộc nhóm C:
- Dự án đầu tư thuộc ngành công nghiệp điện, dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu cảng biển, cảng song, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ có số vốn đầu tư dưới 30 tỷ đồng.
- Dự án đầu tư thuộc các ngành thủy lợi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, xây dựng khu nhà ở, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt có số vốn đầu tư dưới 20 tỷ đồng.
- Dự án đầu tư thuộc hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới, các dự án thuộc các ngành công nghiệp nhẹ như sành, sứ, thủy tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mua sắm thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông, lâm sản có số vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng.
- Dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác có số vốn đầu tư dưới 7 tỷ đồng (Theo PGS.TS. Lưu Thị Hương [2003], Thẩm định tài chính dự án, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội).
1.1.4. Yêu cầu của một dự án đầu tư
1.1.4.1. Tính pháp lý
Tính pháp lý là cơ sở đầu tiên để một dự án đầu tư được quyết định có đầu tư hay không. Đây là yêu cầu nhằm đảm bảo sự an toàn cho quá trình hoạt động đầu tư. Vì thế người soạn thảo dự án phải dựa trên cơ sở pháp lý vững chắc, tức là nghiên cứu đầy đủ các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cùng các văn bản pháp quy có liên quan đến hoạt động đầu tư.
1.1.4.2. Tính khoa học
Dự án đầu tư là thực hiện ý tưởng của chủ đầu tư về toàn bộ quá trình đầu tư từ khi chuẩn bị cho đến khi hoàn thành kết thúc đầu tư, thu hồi được vốn và có lợi nhuận. Nếu dự án không có tính khoa học thì sẽ không có tính thuyết phục, nghĩa là ý tưởng đó sẽ không thể trở thành hiện thực.
Để đảm bảo tính khoa học thì đòi hỏi người soạn thảo dự án phải có một quá trình nghiên cứu tỷ mỷ, kỹ lưỡng, tính toán thận trọng và chính xác từng nội dung dự án, đặc biệt là các nội dung về kỹ thuật công nghệ, tài chính, thị trường sản phẩm và dịch vụ tức là phải dựa vào các kỹ thuật phân tích lợi ích – chi phí.
1.1.4.3. Tính thực tiễn
Dự án đầu tư có tính thực tiễn nghĩa là dự án có khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế. Do vậy, để đảm bảo yêu cầu này thì DAĐT phải được đặt đúng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể: Về mặt bằng, về khả năng vốn, điều kiện cung ứng vật tư,…Nói cách khác là phải phân tích kỹ lưỡng các yếu tố của môi trường vĩ mô và vi mô ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư, tính cấp thiết của DAĐT. Mục đích DAĐT phải trùng với mục đích phát triển kinh tế xã hội.
1.1.4.4. Tính dự toán
Dù DAĐT được chuẩn bị kỹ lưỡng như thế nào, nó cũng chỉ là một văn kiện phản ánh các vấn đề có tính chất dự trù, dự báo về: Khối lượng sản phẩm, quy mô sản xuất, giá cả, chi phí, nguồn tài trợ,…Nó không thể lường trước được các yếu tố chi phối hoạt động của dự án trong thực tiễn. Trong nhiều trường hợp vốn chi thực tế để thực hiện dự án cao hơn nhiều so với số liệu của dự án đưa ra.
1.2. Thẩm định tài chính dự án đầu tư của NHTM
1.2.1. Khái niệm về thẩm định tài chính dự án đầu tư của NHTM
Thẩm định tài chính DAĐT là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản liên quan đến DAĐT, có ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi
và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của dự án để phục vụ cho việc xem xét, quyết định cho khách hàng vay vốn đầu tư dự án của NH.
1.2.2. Nội dung công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của NHTM
Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều bước thẩm định khác nhau, đòi hỏi cán bộ thẩm định cần phải nắm và hiểu rõ các nghiệp vụ cơ bản, nhanh nhẹn trong việc thẩm định ngoài thực tế. Cán bộ thẩm định dự án không làm lại công tác của người soạn thảo DAĐT mà đi sâu tìm hiểu chính xác những ưu điểm, nhược điểm và những hạn chế của DAĐT. Hoạt động thẩm định tài chính DAĐT là một chuỗi các nghiệp vụ có liên quan chặt chẽ với nhau theo một trình tự cụ thể. Song trên thực tế để phù hợp với thực tiễn, các nghiệp vụ này có thể được tiến hành đầy đủ và theo đúng trình tự hay có thể bỏ qua một số nội dung không thích hợp.
1.2.2.1. Quy trình thẩm định tài chính DAĐT tại ngân hàng
Bước 1: Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ xin vay vốn: nếu hồ sơ xin vay vốn chưa đủ cơ sở để thẩm định thì chuyển lại để cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng hoàn chỉnh, bổ sung hồ sơ; nếu đã đủ cơ sở thẩm định thì ký giao nhận hồ sơ, vào sổ theo dõi và giao hồ sơ cho cán bộ trực tiếp thẩm định.
Bước 2: Thẩm định mức độ chính xác và hợp lý trong việc tính toán nhu cầu về vốn
đầu tư, dự tính các yếu tố có thể tác động làm thay đổi tổng mức đầu tư của dự án.
Bước 3: Thẩm định các nguồn tài trợ khác cho dự án có thể chấp nhận được và các yếu tố có liên quan.
Bước 4: Đánh giá độ tin cậy của việc tính toán các khoản thu nhập, các chi phí tài chính của dự án có tính đến các yếu tố tác động.
Bước 5: Thẩm định các chỉ tiêu về mặt hiệu quả tài chính dự án.
Bước 6: Thẩm định phương án vay vốn và trả nợ.
Bước 7: Lập báo cáo thẩm định dự án và gửi đến các cơ quan,bộ phận có liên quan theo quy định. Theo dõi quá trình thực hiện dự án, thực hiện tổng kết, đúc rút kinh nghiệm.
Trong quá trình thẩm định có thể tiến hành thu thập thêm thông tin, số liệu hoặc yêu cầu chủ đầu tư cung cấp thêm thông tin.
1.2.2.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
a. Thẩm định tổng vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn:
Trong thẩm định tài chính dự án, việc ước tính tổng vốn đầu tư cho dự án có ý nghĩa hết sức quan trọng khi xét tính khả thi của dự án. Trong quá trình xây dựng dự án, ngoài những hạn chế về khả năng ước tính đầy đủ, chính xác các khoản mục cần đầu tư, thì có hai xu hướng có thể gây ra sai lệch về tổng vốn đầu tư. Một là việc dự tính vốn này quá thấp để tăng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính nhằm thuyết phục các cơ quan cấp phép và đưa ra quyết định đầu tư. Hai là, dự tính quá cao để có thể rút được nhiều vốn của Nhà nước hoặc các tổ chức tín dụng. Cả hai xu hướng nêu trên đều gây nên thất thoát vốn lớn và tác động tiêu cực đến tính khả thi và hiệu quả hoạt động của dự án.
Tổng vốn đầu tư của dự án là toàn bộ số vốn cần thiết để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động, bao gồm: Vốn đầu tư cố định và vốn đầu tư lưu động.
- Vốn đầu tư cố định, bao gồm:
- Chi phí điều tra, khảo sát để lập, trình duyệt dựa án, chi phí tư vấn, thiết kế dự án, chi phí đào tạo, huấn luyện, chuyển giao công nghệ, chi phí ban đầu về mặt đất, mặt nước, các chi phí chuẩn bị xây dựng mặt bằng.
- Giá trị của nhà xưởng hoặc kết cầu hạ tầng cơ sở sẵn có, chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng.
- Giá trị máy móc thiết bị, phương tiện vận tải sẵn có, chi phí mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải mới (Bao gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt và chạy thử).
- Các chi phí khác.
- Vốn đầu tư lưu động, bao gồm:
- Dự trữ tiền mặt, các khoản phải thu và trả trước.
- Dự trữ hàng hóa: Nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho.
- Vốn dự phòng: Là lượng vốn để đề phòng phát sinh thêm chi phí đầu tư so với dự tính. Trong một khoảng thời gian dài, giá cả có thể thay đổi, tỷ giá hối đoái cũng có thể biến động… Khi đó, vốn dự phòng sẽ được dùng để đáp ứng nhanh chóng nhu cầu chi trả tức thời, đảm bảo được tiến độ thực hiện dự án. Lượng vốn này thường chiếm khoảng từ 1% đến 5% tổng vốn đầu tư, tùy thuộc vào quy mô của dự án mà mức biến động của các biến số chính.
Khi thẩm định nội dung này, cán bộ thẩm định cần kiểm tra, xem xét tổng nguồn vốn cần thiết cho dự án là bao nhiêu; xác định rõ vốn góp (các bên tự huy động) và vốn vay. Từ đó, xác định một cơ cấu các loại vốn tài trợ cho dự án một cách hợp lý để xác định khả năng tham gia tài trợ của ngân hàng vào dự án.
b. Thẩm định kế hoạch sản xuất kinh doanh của dự án về mặt tài chính
Kế hoạch sản xuất kinh doanh của dự án là dự trù về hoạt động của dự án như số ca làm việc trong ngày, công suất dự kiến, mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu, giá nguyên vật liệu, giá bán hàng, các chi phí hoạt động… Tất cả các yếu tố này là cơ sở cho việc xác định dòng tiền và tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án. Tính chính xác và hợp lý của các yếu tố trên ảnh hưởng đến tính chính xác của dòng tiền dự kiến. Tuy nhiên, khi xem xét khía cạnh tài chính dự án, ngân hàng sẽ chỉ phải thẩm định tính hợp lý của các yếu tố chi phí, doanh thu và lợi nhuận của dự án do khách hàng cung cấp.
-Thẩm định doanh thu của dự án:
Doanh thu tiêu thụ được ước tính từ tất cả các nguồn cho từng năm bao gồm:
- Doanh thu từ tiêu thụ sản phẩm chính.
- Doanh thu từ tiêu thụ sản phẩm phụ.
- Doanh thu từ bán phế liệu, phế phẩm.
- Doanh thu từ các dịch vụ cung cấp cho bên ngoài.
- Doanh thu từ việc thanh lý tài sản.
Doanh thu cần được xác định rõ từng nguồn dự kiến theo năm. Thông thường trong những năm đầu hoạt động, doanh thu thấp hơn những năm sau.
Để đảm bảo tính hợp lý và chính xác trong việc xác định doanh thu, cần phải kiểm tra lại hai yếu tố là: giá bán và sản lượng sản xuất hàng năm. Để đơn giản trong quá trình tính toán, giá bán thường được giả định là không đổi trong suốt thời gian vận hành. Tuy nhiên, giá bán sản phẩm thường rất nhạy cảm trước những biến động của thị trường trong và ngoài nước hoặc chịu áp lực cạnh tranh lớn, do đó cần phải có sự dự tính thay đổi giá bán qua các năm hoặc xếp hạng mức độ rủi ro cao hơn khi lựa chon dự án.
Sản lượng sản xuất tính theo phần trăm công suất thiết kế, tăng dần qua các năm đầu và đạt mức 100% khi sản xuất đi vào ổn định. Vì vậy cần phải xác định tỷ lệ phần trăm phù hợp thông qua các thông tin thu thập được.
-Thẩm định chi phí của dự án:
Ước tính chi phí sản xuất hàng năm cho phép hình dung được nhu cầu về vốn và tình hình sử dụng vốn khi dự án đi vào hoạt động. Việc ước tính chi phí sản xuất giúp cho việc xác định giá thành sản phẩm để xem xét khả năng cạnh tranh và tính sinh lời của dự án. Khi thẩm định, cán bộ thẩm định cần phải:
- Kiểm tra sự đầy đủ, tính chính xác của các loại chi phí được ước tính.
- Kiểm tra việc tính toán, phân bổ chi phí lãi vay, chi phí khấu hao, chi phí quản lý, kiểm tra việc xác định giá thành sản phẩm.
-Thẩm định thu nhập của dự án:
Trên cơ sở ước tính doanh thu và chi phí, thu nhập hàng năm của dự án được xác định dễ dàng. Lợi nhuận là mục tiêu tài chính của dự án, thể hiện hiệu quả kinh doanh nên các chỉ tiêu về lợi nhuận được sử dụng để tính toán ở đây cung cấp cho nhà thẩm định thấy hiệu quả về phương diện tài chính của dự án.
c. Thẩm định dòng tiền của dự án
Dòng tiền của dự án được hiểu là phần chênh lệch trong dòng tiền của dự án. Tức là nếu lấy toàn bộ khoản tiền thu được trừ đi khoản tiền chi ra thì sẽ xác định được dòng tiền ròng tại các mốc thời gian khác nhau của dự án. Ngân hàng xác định dòng tiền của dự án để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, xây dựng kế hoạch trả nợ hợp lý và tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án.
Do tiền có giá trị về mặt thời gian nên không thể so sánh các dòng tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà phải quy về một mốc để so sánh.
Dòng tiền ròng là NCF. Vì khấu hao (KH) TSCĐ là chi phí nhưng không phải là chi dưới giác độ tài chính nên để tính NCF phải lấy lợi nhuận sau thuế (LNST) cộng trở lại KH.
NCF = LNST + KH
NCF sẽ được tính cho từng năm trong suốt vòng đời của dự án.
- Khi dự án được tài trợ bằng vốn vay NH và vốn tự có của chủ đầu tư thì việc xác
định NCF sẽ được tiến hành như sau:
Nếu việc thanh toán thực hiện theo niên kim cố định hàng năm:
NCF = LNST + KH – trả vốn vay (Quan điểm của chủ đầu tư).
NCF = LNST + KH + lãi vay (Quan điểm của ngân hàng).
Nếu thanh toán dưới hình thức trả lãi hàng năm, trả gốc vào năm cuối của dự án.
NCF = LNST + KH (Quan điểm của chủ đầu tư).
NCF = LNST + KH + lãi vay (Quan điểm của ngân hàng).
- Khi vốn đầu tư vào dự án là vốn vay của NH thì việc xác định NCF như sau: các
dòng tiền giống với dòng tiền trong trường hợp dự án được tài trợ hỗn hợp.
d. Thẩm định lãi suất chiết khấu (LSCK)
Ngân hàng cần phải xác định một mức lãi suất chiết khấu (r) hợp lý để chiết khấu dòng tiền của dự án trong tương lai về giá trị hiện tại để đánh giá lại hiệu quả tài chính của dự án trên cơ sở có tính đến giá trị thời gian của tiền. Tỷ lệ đó chính là LSCK hay
chính là chi phí vốn của dự án. Việc xác định LSCK như thế nào cho thích hợp là rất quan trọng và nó ảnh hưởng đến việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính của dự án. Lãi suất chiết khấu được tính như thế nào phụ thuộc vào quan điểm, vị trí của người thẩm định và cơ cấu các nguồn vốn đầu tư cho dự án. Cụ thể là:
- Theo quan điểm của nhà đầu tư: LSCK là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với phần vốn đầu tư hay thực chất đó chính là chi phí cơ hội của người sử dụng vốn. Lãi suất chiết khấu trong trường hợp này sẽ được tính theo mô hình CAMP.
- Theo quan điểm của nhà tài trợ hay NH: LSCK là lãi suất cho vay cộng thêm với một tỷ lệ dự phòng rủi ro nhất định (Phần bù rủi ro).
- Đối với những dự án được cho vay bởi nhiều nguồn thì lãi suất chiết khấu được tính
theo phương pháp bình quân gia quyền (WACC).
S r + S r
Trong đó :
WACC =
S B s S B B
rS: chi phí vốn chủ sở hữu.
rB: chi phí vốn vay.
S: vốn chủ sở hữu.
B: vốn vay
e. Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án:
Trong bước này cán bộ thẩm định đi vào tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án
từ đó đánh giá dự án có hiệu quả về mặt tài chính hay không. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án bao gồm:
Giá trị hiện tại ròng (NPV – Net present value)
- Khái niệm: Giá trị hiện tại ròng là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các dòng tiền dự tính dự án mang lại trong thời gian kinh tế của dự án và giá trị đầu tư ban đầu.
- Công thức tính toán giá trị hiện tại ròng (NPV) như sau :
NPV = - NCF0 + NCF1/(1+i) + NCF2/(1+i)2 + NCF3/(1+i)3 +….+ NCFt/(1+i)t
Trong đó:
NCF0: số vốn đầu tư ban đầu của dự án, nó là dòng tiền ra nên mang dấu âm.
NCF1,NCF2,….NCFt: là các khoản thu nhập nhận được trong tương lai ở năm
thứ 1,2,…t.
- Ý nghĩa: Giá trị hiện tại ròng là một chỉ tiêu cơ bản được sử dụng trong phân tích dự án, nó phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư. Một số nhà phân tích tài chính cho đây là chỉ tiêu chính tốt nhất giúp cho việc ra quyết định đầu tư. NPV dương có nghĩa là dự án có lãi. NPV = 0 chứng tỏ dự án chỉ đạt mức hoà vốn. Dự án có NPV âm tức là dự án bị lỗ. Căn cứ vào ý nghĩa của chỉ tiêu NPV dự án được chấp nhận khi có NPV dương và lớn nhất nếu như có nhiều hơn một phương án có NPV dương. Các nhà thẩm định thường dựa trên con số này để ra quyết định phê duyệt dự án.
- Điều kiện lựa chọn dự án:
NPV ≥ 0 : dự án có lời, thực hiện dự án.
NPV < 0 : dự án lỗ, loại bỏ dự án.
- Ưu điểm:
Phản ảnh được đầy đủ các khía cạnh của chi phí và kết quả của dự án.
Tính đến giá trị thời gian của tiền.
- Nhược điểm
NPV chỉ là một chỉ tiêu tuyệt đối, nó không phản ánh được mức độ sinh lời của một đồng vốn đầu tư. Có thể một dự án có NPV nhỏ hơn dự án khác nhưng hiệu quả tương đối của nó (tức là lợi nhuận thu được trên một đồng vốn ) lại cao hơn.
Không tính tới sự khác biệt về thời gian hoạt động dự án. Một dự án có NPV cao hơn tuy nhiên thời gian hoạt động của nó mất rất nhiều năm cũng chưa chắc có tính khả thi bằng một dự án có NPV nhỏ hơn nhưng thời gian hoạt động của nó lại ngắn hơn rất nhiều.