Hai là: Nội dung và quy trình công tác thẩm định DAĐT chặt chẽ và khoa học; được ban hành thống nhất từ Hội sở cho đến các Chi nhánh và thường xuyên được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với các chính sách, quy định mới của Chính phủ liên quan tới công tác thẩm định DAĐT.
ACB đã tiến hành phân cấp trong việc tổ chức thẩm định giữa các Chi nhánh và Hội sở. Các Chi nhánh được quyền ra quyết định trong hạn mức phán quyết về tín dụng đã được quy định của mình. Đối với những dự án vượt khỏi quyền phán quyết, các Chi nhánh phải gửi lên Hội sở để tái thẩm định, trong trường hợp đó bộ phận tái thẩm định không gặp gỡ trực tiếp với khách hàng mà họ lấy thông tin từ Chi nhánh gửi lên cộng với việc thu thập thông tin từ các nguồn khác để làm cơ sở cho công tác tái thẩm định. Như vậy, những dự án không khả thi sẽ bị từ chối ngay ở cấp Chi nhánh, do đó sẽ tiết kiệm thời gian và công sức của chủ dự án và NH lại có thể nâng cao tính chính xác, khách quan của việc ra quyết định.
Quy trình thẩm định ở ACB Huế thường xuyên đổi mới theo hướng đơn giản hóa cho khách hàng song vẫn đảm bảo tính chặt chẽ và khoa học. Số lần khách hàng đến giao dịch với NH được giảm bớt. Khách hàng khi đến NH sẽ làm việc với bộ phận hỗ trợ tín dụng, sau khi các hồ sơ liên quan đáp ứng yêu cầu thì công tác thẩm định chính thức bắt đầu, thông thường mỗi dự án được giao cho một cán bộ thẩm định đảm trách. Quyết định của mỗi cán bộ thẩm định có tác động trực tiếp đến việc tài trợ của NH. Mỗi cá nhân khi ra quyết định có thể còn mang tính chủ quan song sự tham gia đánh giá của Ban tín dụng với nhiều chuyên viên của chi nhánh sẽ làm cho các dự án thẩm định có độ chính xác và tính khách quan cao hơn.
Hoạt động thẩm định được tiến hành một cách toàn diện, đặc biệt các yếu tố như tính đầy đủ, chính xác rất được NH coi trọng. Dự án được đánh giá thông qua các yếu tố: tổng mức vốn đầu tư, các nguồn tài trợ, tiến độ giải ngân, các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án, các yếu tố đảm bảo tiền vay, và khả năng trả nợ của dự án. Trong các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án, NH đã áp dụng được các chỉ tiêu tiên tiến được các tổ chức trên thế giới áp dụng từ rất lâu như NPV, IRR…, chỉ tiêu phản ánh độ nhạy của các yếu tố nội tại cũng như
bên ngoài của dự án, áp dụng phương pháp phân tích độ nhạy…trong các tính toán của mình giá trị thời gian của tiền rất được chú trọng. Do đó, dựa án được đánh giá một cách trung thực và sát thực tế hơn. Từ đó, có thể đo lường được mức độ rủi ro khi dự án đi vào thực hiện trong thực tế, và có thể giảm thiểu được rủi ro không đáng có cho NH.
Ba là: Do trang thiết bị thông tin hiện đại. Đặc điểm của một DAĐT là có rất nhiều thành phần, chi tiết, nội dung thẩm định. Do đó công nghệ trang thiết bị phục vụ cho quá trình thẩm định cũng rất quan trọng. Trang thiết bị, công nghệ tốt sẽ giúp cán bộ thẩm định tiết kiệm thời gian, chi phí và chất lượng thẩm định DAĐT sẽ tốt hơn. Hiện tại, ACB - Huế đã trang bị đầy đủ và đồng bộ thiết bị kỹ thuật cần thiết về phần cứng cũng như phần mềm. Với các phần mềm chuyên dụng phục vụ cho công tác thẩm định, quản lý hồ sơ, thông tin khách hàng, tính toán hiệu quả dự án... như CLMS,
SCORING, LOAN SERVICE5; công việc của cán bộ thẩm định được rút ngắn hơn,
khả năng thẩm định được bao quát hơn, góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tại
ACB Huế.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư vay vốn tại ngân hàng tmcp á châu - chi nhánh Huế - 1
- Đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư vay vốn tại ngân hàng tmcp á châu - chi nhánh Huế - 2
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Vay Vốn Của Nhtm
- Cơ Cấu Tổ Chức Và Chức Năng Của Các Phòng Ban Tại Chi Nhánh
- Thẩm Định Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Hiệu Quả Tài Chính Dự Án
- Đánh giá công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư vay vốn tại ngân hàng tmcp á châu - chi nhánh Huế - 7
Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.
2.3.2. Những hạn chế tồn tại
- Số lượng dự án có tiềm năng đến xin vay vốn ở ACB Huế là còn quá ít, như năm 2012 chỉ có 8 dự án xin vay vốn, nhưng sau khi thẩm định thì Chi nhánh phải từ chối tới 5 dự án. Một số, dự án khi thẩm định có hiệu quả tài chính tốt, nhưng khi đi vào hoạt động lại gặp nhiều khó khăn dẫn tới không đảm bảo khả năng trả nợ cho NH, khiến cho nợ quá hạn cho vay dự án tăng lên đáng kể.
- Công tác kiểm tra, theo dõi các dự án sau khi đi vào hoạt động ít được quan tâm, ít được tổng kết để rút ra các kinh nghiệm thực tiễn phục vụ cho việc thẩm định và quản lý các dự án tương tự sau này.
- Còn nhiều vấn đề hạn chế trong nghiệp vụ thẩm định tài chính dự án như:
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án chưa được sử dụng một cách đầy đủ để bổ sung cho nhau trong việc ra quyết định. Cụ thể là, ACB Huế thường chỉ sử dụng 2 chỉ tiêu đó là NPV và IRR để đánh giá hiệu quả dự án mà bỏ qua một số chỉ tiêu có ý nghĩa khác như PI, điểm hòa vốn, thời gian thu hồi vốn…
5 Phỏng vấn cán bộ chi nhánh.
Cán bộ thẩm định thường xem xét, đánh giá và tính toán các chỉ tiêu tài chính dự án trong trạng thái tĩnh, chưa quan tâm tới một số yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tài chính của dự án như lạm phát, chi phí cơ hội, các điều kiện kinh tế xã hội bất ổn…dẫn đến kết quả thẩm định thiếu chính xác.
Trong quá trình phân tích, cán bộ tín dụng mới chỉ dừng lại ở việc tính toán các chỉ tiêu tài chính và so sánh giữa các năm mà chưa có sự so sánh, đối chiếu với chỉ tiêu trung bình ngành và của các DN cùng ngành. Các báo cáo thẩm định nhiều khi chỉ dừng lại ở việc nhận xét mang tính thủ tục hành chính, chưa có phân tích, đánh giá sâu về các yếu tố thị trường, kỹ thuật, cạnh tranh....đặc biệt là phân tích rủi ro tiềm ẩn của dự án.
Việc xác định tổng vốn đầu tư, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, dòng tiền của dự án chủ yếu vẫn dựa vào các con số tính toán của chủ đầu tư. Cán bộ thẩm định chủ yếu chỉ làm công việc là tính toán lại sự chính xác của các con số mà chưa có sự đi sâu tìm hiểu sự hợp lý của các con số đó.
Công tác đánh giá rủi ro của dự án vẫn chưa được chú trọng. Tại ACB Huế, phần lớn các dự án đều bỏ qua phần phân tích độ nhạy của dự án. Hoặc nếu có được sử dụng để phân tích thì cán bộ thẩm định chủ yếu là dựa trên những dự báo mang tính chất chủ quan nhiều hơn là dựa trên những nguồn thông tin có cơ sở vững chắc. Điều này được thể hiện rõ khi NH dự tính các yếu tố như giá bán, sản lượng, chi phí đầu vào, cán bộ thẩm định thường xác định tăng hay giảm 5% hay 10%...qua các năm, nhưng thực tế không phải chỉ tăng giảm ở những mức độ như vậy.
Cách tính lãi suất chiết khấu của ACB Huế chưa phản ánh được chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Cán bộ thẩm định không xem xét đến chi phí vốn tự có mà DN đóng góp vào dự án, lãi suất chiết khấu của dự án được cán bộ thẩm định tính bằng lãi suất cho vay. Và hệ lụy là giá trị NPV và sự đánh giá IRR so với lãi suất chiết khấu không được chính xác, không phản ánh đúng tính hiệu quả của dự án.
- Việc sử dụng thông tin liên quan tới khách hàng còn nhiều hạn chế: Các thông tin liên quan tới khách hàng được sử dụng trong quá trình phân tích chưa hoàn toàn đầy
đủ. Thực tế tại ACB, các dự án có quá ít chỉ tiêu được sử dụng trong phân tích tài chính DN. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu được tính toán và nhận xét mới chỉ trên cơ sở so sánh giữa các năm với nhau chứ chưa so sánh với một mức chuẩn nào đó để đối chứng hay kiểm tra chéo. Điều này chứng tỏ nguồn thông tin còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu thẩm định.Một điều đáng bàn nữa là số liệu được sử dụng trong phân tích tài chính DN chỉ khoảng 2 đến 3 năm. Điều này chắc chắn sẽ gây khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc nắm bắt được tổng quát về tình hình tài chính DN cũng như độ lành mạnh của chính DN đó.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
- Nội dung và phương pháp thẩm định : Nội dung thẩm định còn nhiều thiếu sót và chưa hoàn thiện. Mặc dù NH đã có quy trình thẩm định dự án sử dụng trong toàn hệ thống nhưng việc thực hiện tuân thủ đúng quy trình chưa thực sự đảm bảo. Đặc thù của NH khi thẩm định dự án chủ yếu tập trung vào khả năng, nguồn trả nợ và thời gian trả nợ, nên các chỉ tiêu đánh giá toàn bộ dự án ít được sử dụng và mặc nhiên công nhận rằng đó là trách nhiệm của chính của chủ đầu tư. Do đó, dẫn đến việc nhiều cán bộ thẩm định chỉ xem việc tính toán các chỉ tiêu như NPV, IRR, PI,…để sử dụng như các chỉ tiêu để tham khảo, bổ sung mà thôi.
Một số vấn đề chưa được hướng dẫn đầy đủ và rõ ràng, điển hình như cách tính LSCK, sự tác động của yếu tố lạm phát đối với DAĐT. Đây là những nhân tố khó đoán định, gây nhiều tranh cãi, tuy nhiên, đó cũng là những nhân tố quan trọng, ảnh hưởng lớn đến tính khả thi của dự án.
Ngoài ra, trong thẩm định tổng vốn đầu tư cũng như cơ cấu, tốc độ bỏ vốn, NH thường chấp nhận những dự toán của chủ đầu tư đưa ra trong dự án mà chưa thực sự cân nhắc, đánh giá một cách toàn diện. Do vậy mà một số dự án khi đi vào thực hiện tổng vốn đầu tư không đủ, kế hoạch bỏ vốn không hợp lý, trong trường hợp này NH buộc phải cho vay phần vốn thiếu hụt vì nếu không dự án sẽ không đảm bảo tiến độ và có thể dẫn tới rủi ro đối với khoản vay trước đó.
- Nguồn nhân lực : Số lượng cán bộ thẩm định còn mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác thẩm định. Số lượng cán bộ thẩm định tại chi nhánh là 3 cán bộ. Do đó khối
lượng công việc bình quân một người phải thực hiện là khá nhiều. Thực tế cho thấy, cường độ và khối lượng công việc mà họ phải đảm nhiệm là quá căng thẳng, thêm vào đó là sức ép từ phía khách hàng về mặt thời gian do vậy nhiều nội dung, quy trình thẩm định có thể bị bỏ qua. Việc tìm kiếm thông tin, tìm hiểu thực tế và tiếp xúc khách hàng chưa được thực hiện thường xuyên. Hơn nữa, sự căng thẳng trong khối lượng công việc và thời gian dẫn đến sự tư vấn của cán bộ thẩm định đối với từng DAĐT bị hạn chế.
Do cán bộ thẩm định chủ yếu tốt nghiệp ngành kinh tế nên kiến thức chuyên môn kỹ thuật về xây dựng, thiết bị máy móc phục vụ sản xuất còn yếu. Điều này ảnh hưởng lớn tới việc đánh giá dự án, thẩm định mức vốn đầu tư.
- Nguồn thông tin : Nguồn thông tin phục vụ công tác thẩm định chưa tin cậy và đầy đủ. Hiện nay, nguồn thông tin NH thu thập chủ yếu vẫn dựa vào thông tin do khách hàng cung cấp và nguồn thông tin này thường thiếu tính chính xác và đầy đủ. Khách hàng thường đưa ra những thông tin có lợi cho họ, thông tin bất lợi được họ giấu hoặc thay đổi tính chất của thông tin. Thông thường, cán bộ thẩm định thu thập thông tin từ các nguồn bên ngoài (như báo chí, internet, tài liệu tham khảo chuyên ngành từ các Bộ, ngành, tổng công ty, các đối tác...) - những nguồn thông tin này chất lượng không cao và còn mang tính chắp vá.
Thông tin thị trường thiếu tính hệ thống và khả năng dự báo trong dài hạn. Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO song thông tin từ thị trường thế giới còn chậm và thiếu. Chúng ta chưa có những kênh thông tin chính thống cập nhật về những diễn biến thị trường thế giới và có độ tin cậy cao phục vụ công tác thẩm định. Việt Nam chưa có những tổ chức hoặc công ty kinh doanh trong lĩnh vực cung cấp thông tin thị trường, thông tin chưa thật sự trở thành hàng hóa. Mặt khác, tính chính xác và đầy đủ của thông tin không gắn với trách nhiệm pháp lý của người hay tổ chức cung cấp thông tin. Những điều này gây ra không ít khó khăn cho cán bộ thẩm định trong việc tìm kiếm, thu thập thông tin phục vụ cho công tác thẩm định.
2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan
- Nguyên nhân từ phía chủ đầu tư : Năng lực và uy tín của chủ đầu tư chưa cao. Đầu tiên, phải kể tới trình độ lập dự án còn thấp, thiếu chính xác, thiếu căn cứ khoa hoc... Khi trình hồ sơ dự án lên NH, DN thường không cung cấp đầy đủ thông tin ngay, thậm
chí là cung cấp thông tin thiếu chính xác về DN và dự án, dẫn đến thời gian thẩm định thường kéo dài và làm giảm chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án. Trình độ quản lý DN nói chung còn thấp, dẫn đến hiệu quả của các dự án không cao, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
- Nguyên nhân từ môi trường kinh tế vĩ mô:
Pháp luật :
+ Hệ thống quy phạm pháp luật liên quan chưa cụ thể, thống nhất, các định mức quy định của Nhà nước về khấu hao, kiểm toán, kế toán...chưa hoàn thiện, một số lĩnh vực không có tiêu chuẩn đánh giá xem xét, các chỉ tiêu thống kê không thống nhất...Hiện nay chúng ta chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc nên khi thẩm định rất khó đánh giá thực trạng tài chính, tình hình thanh toán, kết quả kinh doanh của DN, các số liệu về khả năng tiêu thụ sản phẩm, thu nhập và chi phí là ước tính nên chưa chính xác.
+ Phân cấp quyết định, quản lý dự án của Nhà nước chưa rõ ràng, khiến cho NH đôi khi không xác định chính xác được thẩm quyền quyết định của dự án. Quản lý dự án đôi khi còn chồng chéo giữa địa phương và các bộ ngành liên quan...
Kinh tế :
+ Môi trường kinh tế trong và ngoài nước thường xuyên biến động, khó dự đoán.
+ Hệ thống NH tại Việt Nam chưa thực sự hoàn thiện, thị trường chứng khoán chưa phát triển mạnh dẫn tới việc xác định mức LSCK, tỷ giá không thống nhất, gây nhiều bất lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu tài chính.
+ Số lượng các NH TMCP ngày càng gia tăng. Điều này dẫn tới việc tranh giành thị phần giữa các NH càng gay gắt. Dĩ nhiên muốn có thị phần lớn, lôi kéo được nhiều khách hàng thì đồng nghĩa với việc NH đặt mục tiêu dư nợ tăng cao, nhất là các NH mới thành lập. Các NH mới thường mong muốn phát triển thị phần, tăng dư nợ, điều này dễ dẫn tới việc dễ dãi trong khâu thẩm định khách hàng, thẩm định dự án.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như công nghệ, thiết bị trên thị trường thế giới hiện nay rất phong phú, nhiều loại máy móc hiện đại, do đó khi thẩm định rất khó đánh giá chính xác khả năng sử dụng, vận hành công nghệ, đội ngũ công nhân vận hành của DN, hoặc do chính sách của Nhà nước thay đổi...vv.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU CHI NHÁNH HUẾ
3.1. Định hướng chiến lược phát triển của Ngân hàng TMCP Á Châu Chi nhánh Huế
3.1.1. Định hướng hoạt động chung của ACB Huế
Được thành lập từ năm 2005, đến nay ACB - Huế đã có sự tăng trưởng vượt bậc, cả về quy mô lẫn chất lượng, được đánh giá là một trong những NH lớn, ngang tầm với những NH quốc doanh trên địa bàn. Và để giữ vững sự tăng trưởng đó, Chi nhánh đã đặt ra những định hướng, những mục tiêu cần đạt được sau:
- Củng cố, phát triển mạng lưới và tăng thêm các kênh phân phối sản phẩm của NH.
Chuẩn bị đầy đủ cho công tác thành lập phòng giao dịch mới.
- Tích cực tăng trưởng tín dụng, tìm kiếm và phát triển dư nợ mới, KH mới nhằm đảm bảo mức tăng trưởng tín dụng 17% cho toàn hệ thống vào năm 2013 này. Nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu an toàn, hiệu quả và bền vững.
- Hạn chế nợ quá hạn, đặc biệt là nợ xấu. Tích cực xử lý các khoản nợ quá hạn.
- Tích cực tìm kiếm, huy động các nguồn vốn mới.
- Tập trung khai thác nguồn lực, tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo lại, đào tạo mới để tạo bước chuyển đổi về chất lượng trong quy hoạch, đào tạo và bổ nhiệm cán bộ của chi nhánh.
- Nghiêm túc thực hiện chỉ thị của Chính phủ và NHNN, góp phần hoàn thành mục tiêu vĩ mô: thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hóa, ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, gắn với việc kiểm soát chất lượng tín dụng.
3.1.2. Định hướng đối với hoạt động cho vay và thẩm định DAĐT tại ACB Huế
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của các NHTM ở Việt Nam nói chung. Đây là hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu cho NH, nó có quy mô lớn nhất. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng hàm chứa nhiều rủi ro, nên đòi hỏi NH phải thẩm định kỹ càng. Nhất là hoạt động cho vay theo DAĐT, vì một DAĐT bao gồm nhiều thành phần cần phải thẩm định. Nhận thấy được tầm quan trọng của công tác thẩm định DAĐT, ACB Huế đã vạch ra những định hướng trong hoạt động cho vay đối với các DAĐT:
- Phấn đấu tăng trưởng mạnh hoạt động cho vay theo dự án, chủ động tìm kiếm đầu tư vào các dự án có hiệu quả kinh tế cao, thu hồi vốn nhanh. Tuyệt đối coi trọng chất lượng hơn số lượng, không chạy theo doanh số mà thoả hiệp với các dự án có tiềm ẩn rủi ro.
- Mỗi cán bộ thẩm định trong Chi nhánh phải nhận thức đầy đủ về vai trò, vị trí và nội dung công tác thẩm định DAĐT. Cần thấy rằng hiệu quả thẩm định là cơ sở quyết định tính khả thi của dự án, nhất là hiệu quả thẩm định tài chính của dự án, đó là căn cứ để NH cho vay đảm bảo thu hồi được gốc và lãi. Khi tiến hành thẩm định phải đứng trên quan điểm của người cho vay để xem xét, đánh giá.
- Công tác thẩm định dự án phải được tiến hành thường xuyên, đối với mọi món vay, từ trước khi cho vay đến khi giải ngân thu nợ. Có như vậy mới kịp thời phát hiện được những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra, để có thể kịp thời khắc phục.
- Tiếp tục xây dựng và củng cố quy trình và nội dung các bước thẩm định theo hướng ngày càng hợp lý, khoa học đảm bảo được tính khách quan, toàn diện và đồng bộ khi phân tích và đánh giá các khía cạnh của dự án. Đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia về những lĩnh vực liên quan tới dự án.
- Duy trì cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong Chi nhánh NH để kịp thời phát hiện
các sai phạm và khắc phục.
- Thực hiện nghiêm túc quy định của ngành, của NH TMCP Á Châu và các quy định
của Nhà nước. Đặc biệt là tuân thủ quy trình thẩm định.
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính DAĐT vay vốn
tại Ngân hàng TMCP Á Châu Chi nhánh Huế
3.2.1. Hoàn thiện nội dung và tuân thủ quy trình thẩm định
a. Xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn
Hiện tại, ACB Việt Nam có văn bản hướng dẫn nội dung và quy trình thẩm định dự án, nhưng đó là hướng dẫn chung cho tất cả các loại dự án thuộc các ngành khác nhau. Để công tác thẩm định dự án được thống nhất và có hiệu quả hơn, ACB nên xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn cụ thể cho từng ngành nghề, hay từng loại dự án, và phải bám sát với thực tế để công việc thẩm định của cán bộ thẩm định có thể chính xác và hiệu quả hơn.
b. Khắc phục các nhược điểm trong nội dung thẩm định
- Cần coi trọng việc tính toán các chỉ tiêu tài chính của dự án như NPV, IRR và tuyệt đối không được bỏ qua hay xem nhẹ việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu này. Ngoài ra, một số chỉ tiêu khác như PI, PP, điểm hòa vốn… cũng cần phải được tính toán để bổ sung cho hai chỉ tiêu chính là NPV và IRR để có thể xác định được chính xác hơn tính hiệu quả và khả thi của dự án.
- Lạm phát là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thẩm định DAĐT. Lạm phát khiến cho các dòng tiền và các chỉ tiêu hiệu quả tài chính biến động rất lớn. Gần đây, lạm phát của nước ta luôn ở mức hai con số và khó dự báo. Do vậy, trong quá trình thẩm định cán bộ thẩm định cần tính đến biến động của lạm phát khi tính toán các dòng tiền DA, cụ thể tính mức trượt giá hàng năm khoảng 10% - 15% . Để hạn chế rủi ro do lạm phát thì chủ đầu tư cần ký kết các hợp đồng cung cấp trong dài hạn với mức giá xác định, có thể ký kết hợp đồng cung cấp cho cả quá trình thực hiện dự án.
- Thực tế trong phân tích tài chính dự án vay vốn, ACB Huế xác định lãi suất chiết khấu chỉ dựa trên lãi suất cho vay, Chi nhánh đã bỏ qua chi phí về vốn tự có mà DN tham gia khi xác định lãi suất chiết khấu, điều này làm sai lệch đi tính khả thi của dự án. Vì vậy, ACB Huế cần khắc phục điểm này trong nội dung thẩm định của mình, lãi
suất chiết khấu nên được tính trên chi phí vốn vay (lãi vay), chi phí vốn tự có của DN
và tỷ trọng của từng loại vốn vay và vốn tự có.
- Hầu hết các NHTM hiện nay khi thẩm định tài chính dự án thường tính toán các chỉ tiêu như NPV, IRR, DSCR…rồi phân tích và đưa ra kết luận chứ không có sự so sánh với các dự án cùng ngành hoặc cùng quy mô khác. Bởi vì hiện nay chưa có cơ quan nào ban hành một hệ thống tiêu chuẩn để sử dụng làm chỉ tiêu so sánh. Do đó, Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống chỉ tiêu chuẩn riêng cho mình để làm căn cứ tham chiếu cho các DAĐT. Từ đó giúp cán bộ thẩm định có thể dễ dàng hơn trong việc đánh giá hiệu quả tài chính dự án và giúp cho công tác thẩm định có thể rút ngắn thời gian và có hiệu quả cao hơn.
- Việc đánh giá rủi ro của dự án ở ACB Huế còn mang tính chung chung, chưa lượng hóa rủi ro. Thực chất của việc phân tích rủi ro dự án là phân tích dự án trong trạng thái động, gắn liền với những rủi ro có thể có của thị trường từ đó giúp NH lường trước các rủi ro và có biện pháp phòng tránh thích hợp. Rủi ro có thể có là các sự kiện không mong muốn tác động đến dự án làm thay đổi doanh thu, chi phí, dòng tiền,... của dự án, điều này sẽ ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án. Vì vậy, ACB Huế cần xem việc phân tích rủi ro dự án như phân tích độ nhạy, phân tích tình huống là một phần quan trọng trong nội dung thẩm định tài chính DAĐT, và tuyệt đối không được bỏ qua.
3.2.2. Nâng cao hiệu quả thu thập và xử lý thông tin
Nguồn thông tin từ khách hàng rất quan trọng nhưng nếu các bộ tín dụng chỉ dựa hoàn toàn vào những thông tin đó thì đôi khi dẫn đến sai lầm trong quá trình thẩm định cũng như ra quyết định cho vay vốn. Do đó, Chi nhánh phải chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn thông tin để có được nguồn thông tin tốt và đáng tin cậy nhất. Các nguồn thông tin có thể khai thác như:
- Từ chủ đầu tư: Cán bộ thẩm định có thể sử dụng phương pháp phỏng vấn và quan sát trực tiếp các cơ sở của doanh nghiệp để tìm kiếm nguồn thông tin và đánh giá mức độ trung thực của khách hàng.
- Từ các cơ quan, các tổ chức:
NHNN và các TCTD có quan hệ với chủ dự án: Cán bộ tín dụng Chi nhánh có thể thu thập thông tin về công nợ, mức độ tín nhiệm của các tổ chức khác đối với chủ đầu tư.
Các sở, các cấp, cơ quan Nhà nước như: Sở kế hoạch đầu tư, Chi cục thuế, Chi cục hải quan, cơ quan thống kê,…để tìm hiểu tình hình sản xuất kinh doanh, các đối tác làm ăn của doanh nghiệp…
Từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC).
- Từ các nhà cung cấp, các nhà phân phối, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh của doanh
nghiệp
- Từ các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, internet…
3.2.3. Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ tín dụng
Trong công tác thẩm định một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định là trình độ và năng lực cán bộ thẩm định, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thẩm định DAĐT. Để nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ thẩn định cần phải có sự nỗ lực của hai bên: Chi nhánh và bản thân mỗi cán bộ. Đội ngũ cán bộ tín dụng muốn thực hiện tốt công tác thẩm định phải thoả mãn những yêu cầu về trình độ, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp.
Về trình độ: Cán bộ thẩm định phải có trình độ từ đại học trở lên, phải có kiến thức chuyên sâu về NH, tài chính DN và các kiến thức cơ bản về các lĩnh vực liên quan như về kinh tế thị trường, pháp luật, thuế...
Về khả năng: Cán bộ thẩm định phải tính toán, phân tích được chỉ tiêu tài chính, áp dụng được phương pháp thẩm định nhuần nhuyễn. Bên cạnh đó, phải có khả năng tổng hợp, đánh giá các thông tin một cách linh hoạt và nhạy bén.
Về kinh nghiệm: Cán bộ thẩm định phải trực tiếp tham gia thẩm định DA, bên cạnh kinh nghiệm về thẩm định còn phải có kinh nghiệm về các lĩnh vực liên quan tới DA.
Về đạo đức nghề nghiệp: Cán bộ thẩm định phải có tư cách đạo đức nghề nghiệp
tốt, có bản lĩnh, tính cách trung thực và có trách nhiệm, tâm huyết với ngành.
Để có đội ngũ cán bộ giỏi, thoả mãn các yêu cầu đặt ra thì ACB Huế cần phải tập trung vào các công tác sau:
- Xây dựng kế hoạch đào tạo dài hạn, ngắn hạn về chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định. Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thẩm định, các hội nghị tổng kết đánh giá để đúc kết kinh nghiệm. Bên cạnh đó, khuyến khích cán bộ thẩm định tham gia những khóa học dài hạn hoặc sau đại học để nâng cao trình độ.
- Do đặc thù công tác thẩm định DA là có liên quan tới kỹ thuật, do vậy mỗi cán bộ phải nắm vững kiến thức về kỹ thuật xây dựng, công nghệ, thiết bị sản xuất. Hầu hết các cán bộ thẩm định thường chỉ có kiến thức chuyên môn về kinh tế, tài chính nên việc bồi dưỡng kiến thức về kỹ thuật cũng rất cần thiết cho công việc. ACB Huế nên có những buổi hội thảo, đào tạo ngắn hạn về kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ và có những chính sách khuyến khích họ tham gia những khóa học về kỹ thuật (có thể là ngắn hạn, bằng hai…), tự tìm hiểu các chuyên gia trong ngành kỹ thuật có liên quan tới DA để có kiến thức kỹ thuật phục vụ công tác thẩm định.
- Bên cạnh đó, mỗi cán bộ thẩm định phải không ngừng nâng cao kiến thức về pháp luật, thị trường, ngoại ngữ, tin học...để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác thẩm định. ACB Huế có thể thường xuyên tổ chức các buổi báo cáo, hội thảo để trao đổi về tình hình kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Điều này sẽ giúp cho cán bộ thẩm định có cái nhìn tổng thể từ đó giúp họ hiểu thấu đáo các quyết định mang tính chiến lược của NH.
- Xây dựng những chương trình thu hút những sáng kiến, đề xuất có giá trị của cán bộ thẩm định. Đưa những sáng kiến hữu ích vào áp dụng trong thực tế và có hình thức khen thưởng kịp thời nhằm động viên, khích lệ tinh thần.
- Có chính sách ưu đãi nhằm thu hút những cán bộ giỏi về làm cho ACB Huế.
- Công tác thẩm định DAĐT trực tiếp liên quan tới lợi ích của khách hàng trong việc tài trợ vốn thực hiện các DAĐT. Nhiều chủ đầu tư muốn dự án được chấp nhận và có