Một Số Kinh Nghiệm Từ Quá Trình Đảng Lãnh Đạo Phát Triển Du Lịch (2006 ­ 2015)


triển kinh tế nói chung và du lịch nói riêng đối với mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Thứ

hai,

điểm xuất phát thấp của du lịch Việt Nam. Việt Nam là

nước nông nghiệp, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá. Kinh tế gặp nhiều khó khăn, chỉ mới thực sự phát triển sau khi có chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế từ cuối thập niên 80. Du lịch sẽ không thể phát triển nếu kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân không được cải thiện, việc giao lưu, hội nhập bị hạn chế. Chính vì vậy, du lịch lúc này ít được quan tâm, phát triển.

Thứ ba, chính sách phát triển du lịch chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Đảng chủ trương ưu tiên phát triển và hiện đại hóa du lịch, song việc chỉ đạo thể chế hóa chủ trương đó chưa thể hiện rõ. Luật Du lịch có hiệu lực

từ năm 2006, song đến đầu năm 2009 mới có thông tư hướng dẫn thực

hiện, qua thực tiễn đã thể hiện những bất cập. Chính sách về đầu tư ít hấp dẫn, thủ tục hành chính rườm, thủ tục xuất nhập cảnh cho khách du lịch, chính sách quản lý SPDL... chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Những điều đó gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển du lịch.

Thứ tư, việc quán triệt, triển khai thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển du lịch của một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa tốt. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng cao. Đây là chủ trương nhất quán của Đảng, song quá trình triển khai phát triển du lịch, điều đó chưa thể hiện trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy Đảng, chính quyền. Biểu hiện rõ nét nhất là sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn yếu, có lúc chưa thống nhất, việc triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển du lịch chưa chặt chẽ, chưa kịp thời giải quyết

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

các vướng mắc, từ triển.

đó, chưa tạo ra môi trường thuận lợi để

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển du lịch từ năm 2006 đến năm 2015 - 20

du lịch phát


Thứ năm, năng lực đội ngũ lao động tham gia hoạt động du lịch từ đội ngũ quản lý đến tác nghiệp còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng. Điều này làm ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình phát triển du lịch từ khâu quy hoạch, tổ chức thực hiện quy hoạch, xúc tiến, quảng bá đến chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm, đến khả năng hội nhập quốc tế của du lịch. Cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch, đặc biệt là hệ thống giao

thông chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Công tác XT, QBDL thiếu

tính chuyên nghiệp, ít hấp dẫn. Chất lượng SPDL chưa cao, quản lý chưa tốt... Những điều đó tác động trực tiếp đến việc thu hút khách du lịch, đến chi tiêu của du khách và quyết định việc có quay lại hay không quay lại của khách du lịch.

4.2. Một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo phát triển du lịch (2006 ­ 2015)

4.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng kết hợp phát huy vai trò

quản lý của Nhà nước trong quá trình phát triển du lịch

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng kết hợp vai trò quản lý của Nhà nước là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với phát triển kinh tế ­ xã hội nói chung và phát triển du lịch nói riêng. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, tính liên ngành, liên vùng cao, đa dạng, phong phú, có liên quan chặt chẽ đến quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội, do đó, bản thân du lịch luôn đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng kết hợp quản lý của Nhà nước

để duy trì sự ổn định và phát triển, việc thành công hay thất bại trong

phát triển du lịch phụ

thuộc rất lớn vào chủ

trương, đường lối, khung

khổ

pháp lý và những chính sách thích hợp với điều kiện, trình độ

phát

triển của đất nước. Vì vậy, tăng

cường sự

lãnh đạo của Đảng kết hợp

quản lý của Nhà nước đối với du lịch là vấn đề thiết yếu được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa, du lịch Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu phát triển, kinh


nghiệm chưa nhiều, phát triển trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày một sâu sắc, có nhiều thuận lợi đan xen khó khăn, thách thức lớn, để nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, hạn chế khuyết tật của kinh tế thị trường, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cần phải có sự lãnh đạo của Đảng kết hợp quản lý của Nhà nước. Quản lý Nhà nước đối với du lịch sẽ tạo ra sự thống nhất trong tổ chức và phối hợp các hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch ở các cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, phát huy thế mạnh của từng vùng, địa phương.

Thực tiễn phát triển của du lịch Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng của việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng kết hợp vai trò quản lý của Nhà nước. Trước năm 1991, du lịch ít được Đảng và Nhà nước quan

tâm, vì vậy, chậm phát triển, từ 1992 đến 2005, Đảng đã chú trọng phát

triển du lịch. Vì vậy, du lịch đã khởi sắc và phát triển, đạt được những

thành quả

ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả

quy mô và chất lượng,

dần khẳng định vai trò, vị trí của mình. Trong những năm 2006 ­ 2015, sự lãnh đạo của Đảng kết hợp vai trò quản lý của Nhà nước đối với phát

triển du lịch được thể

hiện rõ nét. Chủ

trương, chính sách phát triển du

lịch của Đảng thể

hiện rõ trong Chiến lược phát triển kinh tế

­ xã hội

2001 ­ 2010 tại Đại hội IX, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, XI và các Hội nghị Trung ương trong giai đoạn 2006 ­ 2015. Các chủ trương đó đã được triển khai trên toàn quốc, hầu hết các tỉnh, thành phố đã lập ban chỉ

đạo nhằm đẩy mạnh phát triển du lịch, nhiều tỉnh uỷ

có nghị

quyết

chuyên đề, chỉ thị chỉ đạo phát triển du lịch tại địa phương, vì vậy, chủ

trương phát triển du lịch của Đảng đã đi vào cuộc sống. Các cơ quan Nhà nước đã tập trung quán triệt sâu sắc những chủ trương, chính sách đó và chỉ đạo chặt chẽ đối với phát triển du lịch. Các bộ, ngành, địa phương tập trung xây dựng và triển khai chương trình hành động phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan


trọng, tạo động lực để phát triển kinh tế xã hội. Trong bối cảnh chịu sự tác động to lớn của khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào năm 2008, tình hình chính trị thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, du lịch Việt Nam

vẫn có sự phát triển mạnh mẽ, đã chứng minh vai trò quan trọng của

Đảng, Nhà nước trong phát triển du lịch.

Từ thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng kết hợp vai trò quản lý của Nhà nước trong quá trình phát triển du lịch giai đoạn 2006 ­ 2015, có thể rút ra một số vấn đề sau:

Một là, xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch phù hợp với thực tiễn, phát huy tối đa những tiềm năng, lợi thế.

Xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch là một trong

những nội dung chủ yếu để đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng kết hợp vai trò quản lý Nhà nước đối với phát triển du lịch, là vấn đề có tính quyết định đối với sự phát triển du lịch, nó giúp cho du lịch có sự phát triển ổn định theo định hướng, mục tiêu rõ ràng, làm cơ sở để triển khai chỉ đạo, quản lý các hoạt động du lịch trên phạm vi cả nước và các vùng, khu du lịch.

Quán triệt chủ trương phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo tiếp tục tổ chức triển khai Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 ­ 2010, Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 ­ 2010; Chương trình Hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2006 ­ 2010. Chương trình hành động của ngành du lịch khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2007 ­ 2012; Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đây chính là những văn kiện định hướng cho sự phát du lịch trong giai đoạn 2006 ­ 2015, là nền tảng để các bộ, ngành, cơ quan, các tỉnh, thành

phố

tập trung chỉ

đạo đẩy mạnh phát triển du lịch. Các quy hoạch, chiến


lược, kế hoạch phát triển du lịch được xây dựng đúng với đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế và du lịch của Đảng và Nhà nước, phù hợp với hiến pháp, pháp luật, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước, với thực trạng của ngành du lịch, nhu cầu, xu hướng phát triển du lịch thế giới và trong nước, phát huy tối đa những tiềm năng, lợi thế của quốc gia và từng vùng, miền. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng,

quy hoạch phát triển du lịch ở một số vùng, địa phương còn bất cập, quy

hoạch còn chồng chéo, chưa gắn sát với thực tiễn, khó triển khai, do đó, cần được tiếp tục điều chỉnh cho phù hợp.

Hai là, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách phát triển du lịch.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách phát triển du lịch có vai trò rất quan trọng, là nhân tố tác động thường xuyên, liên tục đến quá trình phát triển du lịch. Trong giai đoạn 2006 ­ 2015, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách phát triển du lịch đã được ban hành khá đầy đủ, tuy nhiên vẫn chưa đồng bộ, chồng chéo, Luật Du lịch năm 2005, sau khi được triển khai và tổ chức thực hiện đã bộc lộ những thiếu sót. Yêu cầu đặt ra hiện nay là phải xây dựng, bổ sung và hoàn thiện một hệ thống văn bản pháp luật, chính sách phát triển du lịch đầy đủ và toàn diện bao gồm: Luật, các nghị định hướng dẫn, các chính sách về đầu tư phát triển du lịch, giải phóng mặt bằng, thuế, thị trường, xuất nhập cảnh.

Việc phải làm là sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Du lịch 2005 để phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển du lịch, trong đó, cần tiến hành sơ, tổng kết quá trình tổ chức thực hiện Luật Du lịch 2005 trên phạm vi cả nước ở các bộ ngành, các sở du lịch, sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc các tỉnh, thành phố, các doanh nghiệp du lịch, từ đó thấy rõ hơn những điểm


nào chưa phù hợp, những điểm nào còn thiếu sót phải bổ sung cho phù hợp, tập trung vào khắc phục những hạn chế trong phát triển du lịch trong giai đoạn 2006 ­ 2015, chú trọng việc xây dựng, hoàn thiện và ban hành nghị định quản lý các khu, điểm, đô thị du lịch, tiếp tục hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn, quy phạm, các thông tư, nghị định hướng dẫn để khắc phục những bất cập trong quản lý chất lượng SPDL, chất lượng phục vụ, khắc phục tình trạng “chặt, chém” du khách. Đồng thời tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách về du lịch như: Xây dựng chính sách ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng du lịch, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển các khu vui chơi giải trí hiện đại, thực hiện chính sách xã hội hóa đầu tư phát triển du lịch; xây dựng chính sách thuế phù hợp, đặc biệt về thuế đất đối với các khu du lịch, thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị, phương tiện vận chuyển cao cấp phục vụ phát triển du lịch; tiếp tục cải tiến các thủ tục xuất nhập cảnh để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho khách du lịch; xây dựng chính sách

khuyến khích phát triển du lịch ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo, chính sách

khuyến khích việc đóng góp từ thu nhập du lịch cho hoạt động bảo tồn,

phục hồi các giá trị về sinh thái, văn hóa,...

Ba là, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các vi phạm trong phát triển du lịch.

Du lịch có tính liên ngành, liên vùng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, có quan hệ chặt chẽ tới môi trường sống, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội. Sự phát triển của du lịch nói chung và trong giai đoạn 2006

­ 2015 nói riêng đã phát sinh các hành vi tiêu cực: Làm hư hại đến các di tích lịch sử, văn hóa, các danh lam thắng cảnh; khai thác quá mức các công trình khu, điểm, du lịch, làm ô nhiễm môi trường sinh thái; những hoạt động kinh doanh du lịch trái với bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của

dân tộc, những ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến văn hóa... Do đó, cần


thường xuyên tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra trong quá trình phát

triển du lịch để phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời những hành vi tiêu cực.

Thanh tra Chính phủ về du lịch, chính quyền các cấp cần làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về Du lịch, nhất là Luật Du lịch, các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Du lịch, thực hiện tốt việc kiểm tra, đăng

ký kinh doanh du lịch về

kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ

hành… đồng

thời, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm.

4.2.2. Đồng bộ hóa sự phối hợp giữa các ngành, các lực lượng, các nội dung cơ bản của du lịch

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, có liên quan chặt chẽ đến các ngành khác, như: Nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, nghệ thuật… du lịch chỉ phát triển khi có sự liên kết chặt chẽ với các ngành khác. Đồng thời, bản thân du lịch bao gồm nhiều nội dung như: Xúc tiến, quảng bá; phát triển các loại hình và SPDL; thu hút đầu tư phát triển du lịch;... trong đó, từng nội dung có liên quan chặt chẽ với nhau và với các ngành khác, chẳng hạn, để tiến hành XT, QBDL phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến du lịch với các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin liên lạc, do đó, để phát triển du lịch phải đồng bộ hóa sự phối hợp giữa các ngành, các lực lượng, các nội dung cơ bản của du lịch, có vậy mới đảm bảo cho du lịch phát triển bền vững.

Thực tiễn phát triển du lịch chỉ ra rằng: Du lịch chỉ có thể phát triển ổn định và bền vững khi đồng bộ hóa sự phối hợp giữa các ngành, các lực lượng, các nội dung cơ bản của du lịch. Đại hội VI của Đảng khởi sướng

sự nghiệp đổi mới, du lịch đã được chú trọng, tuy nhiên, Đại hội VI chỉ

xem du lịch là một hoạt động để thu ngoại tệ, việc triển khai phát triển du lịch cũng theo nhận thức đó, vì vậy, du lịch chậm phát triển. Cho đến năm


1994, Đảng mới khẳng định du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Trong giai đoạn 1995 ­ 2005, du lịch được triển khai phát triển theo hướng là ngành kinh tế tổng hợp, điều đó đã làm thay đổi nhận thức của các cấp, các ngành, phát triển du lịch có sự phối hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan liên quan, du lịch có sự phát triển nhanh chóng. Trong giai đoạn 2006 ­ 2015, du lịch Việt Nam đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được những kết quả quan trọng. Sự phát triển của du lịch đã

và đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh xuất

khẩu tại chỗ, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Tuy nhiên, du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng của xã hội. Thực tế đó, có một phần là do trong quá

trình tổ

chức thực hiện, sự

phối hợp liên ngành, liên vùng hiệu quả

còn

thấp, đầu tư còn dàn trải, chưa huy động được nhiều nguồn lực của xã hội cho phát triển du lịch, xây dựng đồng bộ các nội dung trong phát triển du lịch có mặt còn hạn chế.

Từ thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo phát triển du lịch trong giai

đoạn 2006 ­ 2015, đồng bộ hóa sự phối hợp giữa các ngành, các lực lượng, các nội dung cơ bản của du lịch, cần tập trung vào một số nội dung sau:

Một là, đổi mới nhận thức, tư duy về phát triển du lịch.

Nhận thức của Đảng về du lịch đã có sự chuyển biến rõ rệt, từ coi du lịch đơn thuần là hoạt động thu ngoại tệ cho đến coi du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, tính liên ngành, liên vùng, xã hội hóa cao và phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên, nhận thức trong xã

hội về du lịch chưa theo kịp yêu cầu phát triển, nhận thức của một bộ

phận nhân lực du lịch về Luật Du lịch, hệ thống các văn bản, chính sách

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 27/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí