Trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và công tác biên giới:
Nhiệm vụ hàng đầu trong hợp tác về an ninh, quốc phòng giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn trong giai đoạn này là giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đập tan âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Các bên đã đẩy mạnh hợp tác toàn diện, chú trọng công tác cố vấn, chuyên gia, tham mưu về công tác Đảng, chính trị trong quân đội; tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, tổ chức, quản lý, xây dựng lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích và dự bị động viên; giúp các tỉnh bạn xây dựng vững chắc thế trận chiến tranh nhân dân; bổ sung, hoàn thiện các phương án phối hợp tác chiến với bạn khi có tình huống xấu xảy ra; tổ chức đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm trên từng lĩnh vực.
Ngày 22/7/1997 Tỉnh ủy ra NQ 08-NQTU về tăng cường lãnh đạo công tác quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, xác định phương hướng, nội dung, giải pháp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh của tỉnh đến năm 2000, trong đó, xác định tuyến biên giới Việt Nam - Lào là địa bàn trọng điểm cần tập trung chỉ đạo. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã chỉ đạo lực lượng Biên phòng, Công an, chính quyền các địa phương liên quan phối hợp chặt chẽ với hai tỉnh bạn thường xuyên nắm bắt tình hình, không để bị động bất ngờ, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh về an ninh, trật tự vùng biên giới, nhất là trong việc phát hiện, phòng ngừa và đấu tranh kịp thời, trấn áp có hiệu quả những hành động xâm nhập, phá hoại của các thế lực thù địch.
Mặc dù hai nước đã giành được độc lập nhưng chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ và các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn chưa từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng, nhằm chia rẽ tình đoàn kết giữa hai dân tộc. “Tỉnh Hà Tĩnh là địa bàn chiến lược quan trọng của Quân khu IV và cả nước, có biên giáp bạn Lào, có cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo và đường Quốc lộ 8A lưu thông với các nước Đông Nam Á. Hoạt động của các đối tượng chống phá có chiều hướng gia tăng với thủ đoạn tinh vi hơn, nhất là lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo” [104]. Tỉnh Hà Tĩnh tiếp giáp với tỉnh Bôlykămxay, Khămmuộn với chiều dài 145km đường biên giới, có cửa khẩu quốc tế Cầu Treo và các cửa khẩu phụ, cùng nhiều đường tiểu ngạch; là nơi núi rừng hiểm trở, có nhiều sông suối, đi lại khó khăn nhất là về mùa mưa lũ; khí hậu khắc nghiệt; dân cư
phân bố không đều, đại đa số là dân tộc ít người, ý thức về biên giới quốc gia còn nhiều hạn chế... Đây là những nhân tố để các thế lực thù địch lợi dụng, gia tăng các hoạt động chống phá. Thủ đoạn của chúng là tìm cách xâm nhập, thu thập thông tin và xuyên tạc về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tuyên truyền, kích động, chống đối chế độ của hai nước [44]. Tình trạng người H’mông (chủ yếu là người tỉnh khác) xuất nhập cảnh, di cư tự do sang Lào đã xảy ra nhiều lần, gây thêm cho tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn nhiều khó khăn [141].
Tình hình an ninh chính trị ở Lào cũng giống như tại Việt Nam, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu "Diễn biến hòa bình" để chống phá Lào. Các nhóm phản động hiện đang tập trung hoạt động chống phá ở Bắc Lào và ngay tại khu vực trung tâm thủ đô Viêng Chăn. Đồng thời, chúng đang có hướng xâm nhập xuống Trung và Nam Lào. Tại hai tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn, bọn phản động lưu vong người Lào, người Việt được các thế lực thù địch nuôi dưỡng và huấn luyện rồi tung về Lào hoạt động chống phá cách mạng Lào [3].
Bộ đội biên phòng tỉnh Hà Tĩnh đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng
công an, chính quyền các địa phương trên địa bàn và các lực lượng chức năng của tỉnh bạn kịp thời nắm chắc tình hình, phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả bọn tội phạm hình sự đang lẩn trốn, bọn khai thác lâm thổ sản trái phép và các loại tội phạm khác [143], [35], [45].
Có thể bạn quan tâm!
- Đảng Bộ Tỉnh Hà Tĩnh Lãnh Đạo Xây Dựng Quan Hệ Hữu Nghị, Hợp Tác Với Tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn Từ Năm 1991 Đến Năm 1995
- Đảng Bộ Tỉnh Hà Tĩnh Lãnh Đạo Xây Dựng Quan Hệ Hữu Nghị, Hợp Tác Với Tỉnh Bôlykhămxay Và Tỉnh Khămmuộn Những Năm Đầu Đẩy Mạnh Công Nghiệp
- Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn CHDCND Lào từ năm 1991 đến năm 2010 - 7
- Chủ Trương Của Đảng Bộ Tỉnh Hà Tĩnh Về Tiếp Tục Phát Triển Quan Hệ Đặc Biệt Giữa Tỉnh Hà Tĩnh Với Tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn
- Quá Trình Chỉ Đạo Thực Hiện Phát Triển Quan Hệ Hữu Nghị, Hợp Tác Với Tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn Của Đảng Bộ Tỉnh Hà Tĩnh (2001 - 2010)
- Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn CHDCND Lào từ năm 1991 đến năm 2010 - 11
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
Các bên tăng cường phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh biên giới, ngăn chặn các hoạt động tội phạm, vượt biên trái phép, buôn lậu qua biên giới, nhất là buôn lậu ma túy; tiêu diệt tận gốc các ổ phỉ, các băng nhóm chống đối có vũ trang; giải quyết một cách thỏa đáng những vấn đề phát sinh [180].
Tính riêng trên địa bàn huyện Hương Sơn, từ năm 1991 - 2000, lực lượng bộ đội biên phòng đã bắt giữ 295 đối tượng vượt biên trái phép [149]. Trong năm 1999, lực lượng biên phòng đã tổ chức tuần tra 40 lần với 270 lượt người tham gia, xử lý 80 trường hợp vào cư trú, làm ăn trái phép trong khu vực biên giới; phối hợp với tỉnh bạn tuần tra song phương 4 lần với 34 lượt người tham gia. Nhờ tăng cường công tác tuần tra, xử lý vi phạm, tình trạng vượt biên trái phép đã giảm nhiều so với những năm trước đây [134].
Song song với nhiệm vụ tăng cường hợp tác phòng chống có hiệu quả âm
mưu của các thế lực thù địch, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn, tỉnh Hà Tĩnh và
tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn đã tăng cường hợp tác và thu được những kết quả đáng phấn khởi trong công tác xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị.
Thực hiện Hiệp định Quy chế biên giới quốc gia, về phía Việt Nam có 12 mốc quốc giới được giao cho 4 đồn Biên phòng quản lý, bảo vệ. Trong đó, Đồn cửa khẩu Cầu Treo phụ trách đoạn biên giới dài 56 km, gồm 4 mốc: N1, N2, N13, N14; Đồn 567 phụ trách đoạn biên giới dài 44 km, gồm 2 mốc: N3, N4; Đồn 571 phụ trách đoạn biên giới dài 28 km, gồm 4 mốc: N5, N6, N7, N8; Đồn 575 phụ trách đoạn biên giới 17 km, gồm 2 mốc: N9, N10. Do mốc quốc giới được cắm trên núi cao, độ dốc lớn, địa hình hiểm trở, kích cỡ cột mốc quá nhỏ nên rất khó khăn trong công tác bảo vệ [36].
Trong những năm 1996 - 2000, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành liên quan, đặc biệt là lực lượng Quân sự, Biên phòng, Công an tỉnh Hà Tĩnh đã phối hợp với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, giúp nhân dân nâng cao nhận thức, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, đặc biệt là tích cực tham gia nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia; phát huy vai trò, sức mạnh to lớn của nhân nhằm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân vững mạnh; Phối hợp bảo vệ, tu bổ, giữ nguyên hiện trạng và quản lý bảo vệ tốt hệ thống mốc quốc giới đảm bảo quy định của Hiệp định Quy chế biên giới [179].
Do đời sống còn gặp nhiều khó khăn nên một bộ phận cư dân biên giới cùng với các đối tượng thuộc các địa phương khác thường lợi dụng tình hình để vượt biên trái phép sang lãnh thổ của nhau. Hàng năm, chính quyền các tỉnh bạn đã tổ chức trao trả người di cư tự do cho các cơ quan chức năng của tỉnh Hà Tĩnh và các tỉnh khác của Việt Nam qua cửa khẩu Cầu Treo. Trong giai đoạn từ năm 1991 đến 1997, các tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn và Bộ Nội vụ Lào đã tiến hành 13 đợt trao trả và tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức tiếp nhận 274 người Việt Nam vượt biên trái phép sang Lào [142].
Ngoài ra, bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh còn kết hợp với chính quyền địa phương tổ chức giáo dục cho nhân dân nhận thức sâu sắc về quy chế biên giới, đồng thời thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định về Quy chế biên giới quốc gia của hai nước Việt Nam - Lào [149].
Tiểu kết chương 1:
Từ năm 1986 đến năm 1990, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn diễn ra trong bối cảnh hai nước và các địa phương đang gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong điều kiện kinh tế còn nghèo, chưa thoát khỏi cơ chế quan liêu bao cấp, lại vừa phải đối phó với âm mưu chống phá thâm độc của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, nhờ sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, với truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời và những ưu đãi đặc biệt giành cho nhau, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn tiếp tục được tăng cường và thu được những kết quả đáng phấn khởi, nhất là hợp tác về chính trị và an ninh quốc phòng [174]. Đặc biệt, sự quan tâm, giúp đỡ về chuyên gia, cung ứng cơ sở vật chất, trang thiết bị thiết yếu phục vụ sản xuất, đời sống của tỉnh Hà Tĩnh đã giúp các tỉnh bạn giải quyết kịp thời những khó khăn trước mắt. Trong thời kỳ khó khăn, hàng hoá của Việt Nam đến với các bản làng của các tỉnh bạn, nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa đã khắc phục được một phần thực trạng khan hiếm hàng hoá của các tỉnh bạn, góp phần ổn định tình hình, nâng cao đời sống cho nhân dân.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, những kết quả đạt được trong quá trình triển khai thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã được các bên thống nhất còn thấp so với yêu cầu, mong muốn và tiềm năng của ba tỉnh. Nhiều nội dung hợp tác đã được đề ra nhưng thực hiện thiếu kịp thời, có nơi, có lúc thiếu tính khả thi. Quan hệ hợp tác chủ yếu đang diễn ra ở khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó, lĩnh vực được chú trọng nhất là nông - lâm nghiệp. Do đó, nhìn chung việc hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn đem lại hiệu quả chưa cao, nặng tính chất bao cấp, phiến diện; chưa khơi dậy, phát huy được tiềm năng, thế mạnh của ba tỉnh.
Bước sang giai đoạn 1991 - 2000, quan hệ hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn được thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ, hiệu quả cao hơn trên nhiều lĩnh vực; hợp tác kinh tế từng bước được coi trọng và bước đầu mang lại những kết quả đáng khích lệ trên một số lĩnh vực. Cùng với hợp tác kinh tế, các lĩnh vực hợp tác khác cũng không ngừng phát
triển và đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Bôlykhămxay, Khămmuộn giai đoạn 1991 - 2000 cho thấy, kết quả hợp tác mà các bên mang lại chưa cao. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế, tuy đã được hai nước và ba tỉnh xác định là lĩnh vực hợp tác trọng tâm, nhưng trong thực tế, hợp tác giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn trong lĩnh vực này hiệu quả còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu phát triển kinh tế và mong muốn của Đảng bộ và nhân dân ba tỉnh.
Trong giai đoạn này, phương thức lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn đã có một số đổi mới theo hướng quán triệt nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhất là trong hoạch định chủ trương cũng như trong lãnh đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ hợp tác với các tỉnh bạn. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, phương thức lãnh đạo của Đảng bộ trong việc xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn còn một số tồn tại, khuyết điểm. Cụ thể là, còn chậm ban hành các Nghị quyết chuyên đề về xây dựng quan hệ hợp tác hữu nghị với tỉnh Bôlykhămxay, Khămmuộn; công tác tuyên truyền chưa được quan tâm đúng mức nhằm tạo sự thống nhất trong toàn Đảng bộ và cả hệ thống chính trị về vấn đề này; công tác kiện toàn tổ chức, nâng cao tinh thần trách nhiệm, hiệu quả, hiệu lực điều hành của bộ máy và đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ trên các lĩnh vực công tác chưa thật sự được coi trọng; việc lãnh đạo chính quyền thể chế hoá các quan điểm, phương hướng về hợp tác với Bôlykhămxay, Khămmuộn của Đảng bộ thành các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án cụ thể thiếu kịp thời, có nơi, có lúc còn chưa được coi trọng; công tác kiểm tra, tổng kết việc thực hiện nhằm rút kinh nghiệm và khắc phục kịp thời những tồn tại vướng mắc chưa đạt yêu cầu. Đây cũng là những vấn đề đặt ra đòi hỏi Đảng bộ cần tiếp tục giải quyết ở giai đoạn tiếp theo.
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỮU NGHỊ, HỢP TÁC TOÀN DIỆN VỚI TỈNH BÔLYKHĂMXAY, KHĂMMUỘN CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TĨNH TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
2.1. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - LÀO TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI
2.1.1. Tình hình quốc tế và khu vực
Bước vào thiên niên kỷ mới, tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ ngày càng cao, đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Quá trình hội nhập kinh tế và khu vực tiếp tục phát triển sâu rộng với tốc độ nhanh. Cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn [124, tr.209].
Trong bối cảnh các nước tiếp tục điều chỉnh chính sách, tình hình chính trị và an ninh ở nhiều khu vực trở nên căng thẳng hơn. Tình hình chính trị - xã hội của một số quốc gia ở một số khu vực có nhiều biến động và mất ổn định, dẫn đến xung đột bạo lực leo thang, phân cực nội bộ xã hội và thay đổi chính quyền. Tình trạng mất ổn định chính trị, an ninh ở một số quốc gia Đông - Nam Á như Inđônêxia, Myanma, Tháilan... đã tác động lớn đến các mối quan hệ song phương giữa nhiều quốc gia với nhau và ảnh hưởng đến môi trường hòa bình, ổn định chung ở khu vực [17, tr.62-63]. Khu vực Đông Nam Á, sau nhiều thập kỷ chiến tranh, đối đầu, đã có hòa bình. Tuy còn tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây bất ổn định, nhưng xu thế hợp tác để phát triển không ngừng gia tăng.
Những biến động về chính trị trên trường quốc tế đã tác động đến quan hệ Việt Nam - Lào. Các thế lực phản động quốc tế không từ bỏ chiến lược "Diễn biến hoà bình" để xóa bỏ các nước XHCN còn lại [27, tr.505], âm mưu
dùng "Bạo loạn lật đổ", với những thủ đoạn "Chống khủng bố" và lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để tạo cớ can thiệp vào nội bộ Việt Nam và Lào. Ngoài ra, các thế lực thù địch còn tăng cường hỗ trợ, tiếp tay cho các lực lượng phản động trong nước và bọn lưu vong ở nước ngoài chống phá cách mạng Việt Nam và Lào quyết liệt hơn.
Trong bối cảnh đó, sự nghiệp đổi mới của đất nước, sự mở cửa của Việt Nam và Lào đang đứng trước nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít những thách thức. Lào và Việt Nam là hai nước trong số ít quốc gia còn kiên định mục tiêu CNXH, cho nên mỗi nước một mặt phải phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đồng thời cần đẩy mạnh và tăng cường mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng, nhân dân hai nước, nhằm đảm bảo giữ vững định hướng và mục tiêu CNXH, đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thành công, đáp ứng nguyện vọng, lợi ích cơ bản và lâu dài của hai dân tộc, phù hợp với xu thế hoà bình, phát triển của khu vực và trên thế giới.
Đối với nước Lào, Đại hội Đảng lần thứ VII (3/2001) tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tạo tiền đề cho việc xây dựng CNXH; tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại hoà bình, độc lập, hữu nghị và hợp tác với các nước, nhất là các nước trong khu vực. Củng cố và phát triển tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt với Việt Nam [68, tr.708]; Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước láng giềng; Tích cực tham gia các hoạt động của Hiệp hội các quốc gia ĐNA (ASEAN); Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế. Nước Lào còn tham gia tích cực vào các tổ chức hợp tác khu vực như ASEAN, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Tiểu vùng Mê công mở rộng (GMF), Tam giác phát triển Camphuchia
- Lào - Việt Nam (CLVBT), Hợp tác Camphuchia - Lào - Mianma - Việt Nam (CLMV), Tổ chức chiến lược hợp tác kinh tế giữa 3 dòng sông Iraoađi- Chao Phaya - Mê công (ACMECF), Hội nghị Á - Âu (ASEM).
Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần lần thứ VIII (4/2006), tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, xây dựng đất nước giàu mạnh và phồn vinh. Đại hội xác định mục tiêu xây dựng đất nước thời kỳ 2006 - 2010 và
hướng tới năm 2020 là tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp, tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến tới mục tiêu xây dựng CNXH. Đại hội chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế: tiếp tục củng cố tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với các nước XHCN, trong đó tiếp tục củng cố và phát triển tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam [68, tr.716].
2.1.2. Tình hình trong nước
Bước vào thiên niên kỷ mới, với những thắng lợi đã giành được trước đây trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới đã làm cho thế và lực của Việt Nam ngày càng được củng cố và nâng cao. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều thành tựu quan trọng. Việt Nam đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nước XHCN, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống; tham gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á và Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, tạo ra "một bước quan trọng cho việc hội nhập nền kinh tế khu vực, tạo điều kiện để Việt Nam tham gia các tổ chức khu vực, liên khu vực, liên châu lục, tiến tới gia nhập tổ chức hợp tác toàn cầu, hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới" [30, tr.379].
Những thành tựu đạt được đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã từng bước chủ động hội nhập khu vực và quốc tế, trước hết về kinh tế, nhằm bổ sung và hỗ trợ cho việc "xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để từ đó có thể chủ động đi vào dòng chảy của thời đại một cách có lợi nhất cho mình và phù hợp nhất với mình" [83, tr.20].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,
đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn