Quan Điểm, Chủ Trương Của Đảng Về Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ Dân Tộc Thiểu Số


tộc nói riêng và công tác quản lý quốc gia nói chung là yêu cầu mới đặt ra trong giai đoạn này.

Kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020 gắn với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với quy hoạch ngành, lĩnh vực; khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của vùng Tây Nguyên; đẩy mạnh hội nhập quốc tế, nhất là trong Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, tăng cường hợp tác giữa các địa phương trong vùng với cả nước nhằm huy động, sử dụng tốt mọi nguồn lực để phát triển nhanh, bền vững, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế - xã hội của vùng so với cả nước.

Tây Nguyên vẫn là địa bàn trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Được sự chỉ đạo, hỗ trợ từ bên ngoài, bọn phản động FULRO tiếp tục tìm mọi cách hoạt động để phát triển lực lượng, phục hồi tổ chức nhằm thực hiện mục tiêu lâu dài là chia rẽ đoàn kết dân tộc, kích động ly khai, lập "Nhà nước Đề Ga". Các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu thành lập "Nhà nước Đề Ga"; tiếp tục lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích thích tư tưởng dân tộc hẹp hòi, cực đoan. Bên trong vẫn còn tồn tại tư tưởng ly khai và ý thức về “Nhà nước Đề Ga”; hoạt động của các tôn giáo, nhất là đạo Tin lành tiếp tục bị bọn phản động lợi dụng, lôi kéo, đẩy mạnh phát triển "Tin lành Đề Ga". Vấn đề dân tộc nếu không giải quyết tốt sẽ tác động đến khối đoàn kết dân tộc và ổn định xã hội.

Xây dựng vùng Tây nguyên thanh bình, no ấm là một yêu cầu đặt ra, vì có như vậy mới đẩy lùi được mọi âm mưu, thủ đoạn của bất kỳ thế lực thù địch nào dù trong giai đoạn nào. Mở cửa đón nhận những cá nhân, tổ chức ở nước ngoài đến Tây nguyên để khám phá, hợp tác cùng phát triển.

Muốn vậy, phải có những biện pháp để khắc phục hạn chế hiện đang tồn tại ở Tây Nguyên đó là: hệ thống chính trị cơ sở còn nhiều vấn đề bất cập, hạn chế như nhiều buôn làng có chi bộ, tổ đảng nhưng chất lượng sinh hoạt thấp, nặng về hình thức, vai trò nòng cốt của đảng viên chưa cao. Trình độ, năng lực


thực tiễn của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế và chưa đồng đều. Cán bộ chuyên trách cấp xã chưa qua các chương trình đào tạo còn nhiều. Công tác quy hoạch, tạo nguồn, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nhiều nơi vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt và xây dựng đội ngũ kế cận lâu dài.

Đối với tỉnh Đắk Lắk, tình hình chung ít thay đổi so với giai đoạn 2005- 2010. Toàn tỉnh có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có: 13 huyện, 1 thành phố và 1 thị xã; có 184 xã, phường, thị trấn, trong đó có: 20 phường; 12 thị trấn; 152 xã. Dân số tỉnh Đắk Lắk năm 2011 là 1.770.502 người, sống ở thành thị có 426.086 người, sống ở nông thôn có 1.344.416 người; đến năm 2015 là 1.853.698 người, sống ở thành thị có 450.585 người, sống ở nông thôn có 1.403.113 người [36].

Ở tỉnh Đắk Lắk, ngoài đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ như Êđê, Mnông, GiaJai còn có đông các dân tộc thiểu số khác di cư đến lập nghiệp. Giai đoạn 2010-2015, có 47 dân tộc, trong đó dân tộc kinh chiếm đa số với khoảng 67%; các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 33%. Sự đa dạng của các thành phần dân tộc đã tạo cho tỉnh Đắk Lắk một nền văn hóa đa dạng, vừa mang bản sắc riêng của từng dân tộc, vừa có sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc. Đây là đặc điểm quan trọng ảnh hưởng tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

Được Nhà nước quan tâm đầu tư về phát triển kinh tế - xã hội và một số chính sách ưu đãi khác nhằm xây dựng Đắk Lắk trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng Tây Nguyên vào năm 2020. Hướng quan tâm đầu tư cụ thể là:

- Phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến công nghệ cao; phát triển du lịch trên cơ sở khai thác hợp lý nguồn tài nguyên du lịch phong phú và nền văn hóa đa dạng, đặc sắc; đồng thời đảm bảo giữ vững về an ninh, quốc phòng.

Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 2005 đến năm 2015 - 11


- Định hướng quy hoạch phát triển chung về tổ chức và phát triển không gian theo ba vùng lãnh thổ, gắn kết với sự phát triển theo các trục hành lang nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đô thị hóa. Hình thành các vùng đô thị hóa tập trung và các trục tăng trưởng để lan tỏa không gian đầu tư trên địa bàn các huyện, thị xã...

- Quy hoạch, xây dựng mạng lưới các trường, các cơ sở giáo dục công lập và tư thục. Tiếp tục mở rộng, nâng cao năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo của tỉnh, đẩy mạnh liên kết với các trung tâm đào tạo của cả nước để tăng chất lượng đào tạo lực lượng lao động của tỉnh. Chọn cán bộ trẻ có trình độ và năng lực để đào tạo ở nước ngoài đối với một số ngành, lĩnh vực quan trọng, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới. Có chính sách khuyến khích phát triển nhân tài, đồng thời đãi ngộ các nhà quản lý giỏi, các chuyên gia khoa học kỹ thuật đầu đàn, công nhân có tay nghề cao đến địa phương làm việc.

Tiềm lực kinh tế của tỉnh Đắk Lắk đã có những bước phát triển mới: Đã hình thành các khu, cụm công nghiệp, đô thị mới; cơ sở hạ tầng được hoàn thiện thêm một bước như giao thông nông thôn, mạng lưới điện, thủy lợi, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông; cơ sở hạ tầng như giáo dục, y tế, văn hóa xã hội được mở rộng; đời sống nhân dân đang từng bước được cải thiện. Đó là những nền tảng rất cơ bản cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới.

Tuy vậy, giai đoạn 2010-2015, tỉnh Đắk Lắk đối diện với nhiều khó khăn nhất. Ngoài vị trí thuận lợi về giao lưu kinh tế, Đắk Lắk còn có vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng không những đối với vùng Tây Nguyên mà còn đối với cả nước. Trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới cần gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế với bảo vệ an ninh quốc phòng và phát triển bền vững. Sự phát triển ổn định của tỉnh Đắk Lắk tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố như quyết tâm và sự đồng thuận của toàn xã hội, vào năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, hiệu lực, hiệu quả trong công tác điều hành của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các tổ chức khác, trong đó, yếu tố có


tính quyết định chính là đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.

Xuất phát từ tình hình đó, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015 có nhiều yêu cầu mới đặt ra. Những yêu cầu đó được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh quán triệt và chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ đến các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

3.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Công tác dân tộc được Đảng Cộng sản Việt Nam Việt Nam đặc biệt quan tâm hơn nữa trong giai đoạn phát triển mới. Kết luận số 57 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc, ngày 3/11/2009 của Bộ Chính trị khóa X đã yêu cầu các cấp ủy, chính quyền liên hệ thực tiễn của ngành, địa phương, đơn vị mình để rà soát, bổ sung chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy gắn với kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 57 của Bộ Chính trị.

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 10/2002/NQ-BCT của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Ban Chấp hành Trung ương ra Kết luận số 12- KL/TW, ngày 24/10/2011 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ chính trị khóa IX về phát triển vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2020, trong đó, xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng của các tỉnh Tây Nguyên đó là:

Tập trung kiện toàn bộ máy Đảng, chính quyền cơ sở gần dân, sát dân; duy trì tỷ lệ thích đáng và bảo đảm cơ cấu cán bộ người dân tộc thiểu số trong bộ máy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở; thu hẹp nhanh số buôn, làng chưa có đảng viên và tổ chức đảng, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và nơi có đông đồng bào các tôn giáo [8].


Cùng với việc kiện toàn hệ thống chính trị, phải tiếp tục xây dựng và củng cố tiềm lực quốc phòng - an ninh vững mạnh, chủ động xử lý mọi tình huống, giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Quan tâm giải quyết tốt những vấn đề liên quan đến quản lý đất đai, quản lý tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản; tạo mối liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện có hiệu quả chính sách giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, trong đó cần ưu tiên cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa và địa bàn biên giới.

Chỉ thị số 1971/CT-TTg, ngày 27/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa chỉ rõ yêu cầu mới đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số hiện nay. Đó là đăng ký nhu cầu đào tạo và đào tạo liên thông ở các cấp bậc học nhằm tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số một cách tốt nhất để xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh:

Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, đề xuất sửa đổi chính sách cử tuyển theo hướng phân cấp cho các địa phương đăng ký nhu cầu đào tạo về số lượng và ngành nghề, áp dụng đối với tất cả các dân tộc sống ở vùng khó khăn; chính sách học liên thông giữa hệ nội trú bậc Trung học cơ sở với hệ nội trú bậc Trung học phổ thông, trường dạy nghề, cao đẳng và đại học. Chính sách học liên thông giữa hệ nội trú bậc Trung học cơ sở với hệ nội trú bậc Trung học phổ thông, trường dạy nghề, cao đẳng và đại học [31].

Để nâng cao năng lực và trình độ cho cán bộ dân tộc thiểu số, ngày 22/11/2010, theo Quyết định số 2123/QĐ-TTg, Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010-2015, với những quan điểm cụ thể như sau:

Một là: Nhà nước quan tâm phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo cho vùng có đồng bào dân tộc rất ít người.


Hai là: Nhà nước ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục có học sinh dân tộc rất ít người; có chế độ, chính sách đặc thù cho trẻ em, học sinh, sinh viên dân tộc rất ít người; tạo cơ hội cho trẻ em, học sinh, sinh viên dân tộc rất ít người được học tập; đảm bảo thực hiện công bằng trong giáo dục. Nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý; đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc rất ít người; nâng cao chất lượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc rất ít người.

Ba là: Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu tăng cường chất lượng, tinh giản biên chế hành chính, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa các chức danh lãnh đạo, quản lý, các ngạch, bậc công chức, viên chức; giữa các độ tuổi, địa bàn, lĩnh vực công tác; tăng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, con gia đình có công với cách mạng; khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định 3 khâu đột phá chiến lược, trong đó, có yêu cầu về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay, với nội dung cụ thể là: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [50, tr.41].

Nguồn nhân lực chất lượng cao là tài nguyên quý giá nhất của đất nước, phải lấy nguồn lực con người làm tài nguyên thay thế. Vì vậy, phải làm cho mọi cấp, mọi ngành, mọi người thấy có trách nhiệm trong việc đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, biến số lượng và chất lượng nguồn nhân lực của đất nước thành lợi thế cạnh tranh trên phương diện toàn cầu. Do vậy, phải hết sức chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo là người dân tộc thiểu số nói riêng và cán bộ chủ chốt tuyến cơ sở vùng dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó, xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo lại công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Hình thành đội ngũ lao động, doanh nhân, trí thức là người các dân tộc thiểu số có sức khỏe, có trình độ chuyên môn, tác


phong công nghiệp, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực hiện các chương trình, mô hình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, hình thành thế hệ nông dân mới, biết ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, thích ứng với cơ chế thị trường trong vùng dân tộc thiểu số.

Nghị định số 05 của Chính phủ về công tác dân tộc được ban hành ngày 14/1/2011 đã nhấn mạnh những việc cần làm đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số: Nhất thiết phải có cán bộ chủ chốt người dân tộc thiểu số ở các địa phương vùng dân tộc thiểu số; tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số tham gia vào các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp phải đảm bảo được tính hợp lý về số lượng; công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số là trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/1/2012 về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đề ra những giải pháp cho ba vấn đề cấp bách, trong đó có vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Bước đột phá góp phần đổi mới sâu sắc công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý được thể hiện trong Kết luận số 24-KL/TW ngày 5/6/2012 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo, kết luận nêu rõ cán bộ dân tộc thiểu số cần được chú ý khi xác định tiêu chuẩn, cơ cấu đội ngũ cán bộ trong quy hoạch nhằm đảm bảo quy hoạch sát với thực tiễn và có tính khả thi.

Thực hiện Quyết định số 449/QĐ-TTg, ngày 12/3/2013 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 và Quyết định số 2356/QĐ-TTg, ngày 04/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020. Ngày


21/7/2014, Bộ Nội vụ ban hành Kế hoạch số 2754/KH-BNV về triển khai Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 với nội dung: Xây dựng và triển khai thực hiện Đề án phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới. Xây dựng cơ chế, chính sách giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp để tạo nguồn cán bộ gắn với nhu cầu sử dụng của địa phương, đặc biệt chú trọng các vị trí cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở ở những vùng có đồng bào dân tộc thiểu số.

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 124/QĐ-TTg, ngày 16/1/2014 Phê duyệt Đề án tiếp tục củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020, với những giải pháp cụ thể như [35]:

Một là: Đào tạo, bồi dưỡng trình độ văn hóa trung học phổ thông cho cán bộ, công chức cấp xã, nhất là cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã trọng điểm vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Hai là: Thực hiện chế độ cử tuyển và thu hút học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số thuộc các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã trọng điểm vùng đồng bào dân tộc thiểu số vào học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường cao đẳng, đại học.

Ba là: Triển khai thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực, đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, củng cố hệ thống chính trị cơ sở và giữ vững khối đại đoàn kết các dân tộc theo quy định.

Đề cập đến nội dung đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26/5/2014 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Xuất phát từ vị trí vai trò và đặc điểm của cán bộ dân tộc thiểu số, Nghị quyết khẳng định sự cần thiết của công tác đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ dân tộc thiểu số. Hoạt động thực tiễn đang đòi hỏi họ cần phải có hiểu biết lý luận, hiểu và nhận thức đúng đắn các quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương,

Xem tất cả 195 trang.

Ngày đăng: 20/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí