hằng năm cho Nhà trường, đồng thời Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện chi trả tiền trợ cấp tiền ăn ở, đi lại...cho sinh viên. Đối với cơ sở giáo dục do Trung ương quản lý, Sở Giáo dục và Đào tạo chuyển trả toàn bộ kinh phí bao gồm: học phí, trợ cấp và học bổng cho các cơ sở giáo dục; các cơ sở giáo dục trực tiếp chi trả cho sinh viên tiền trợ cấp và học bổng. Bắt đầu thực hiện từ năm 2008, đến năm 2010, tổng kinh phí dành cho đào tạo cử tuyển của tỉnh Yên Bái đạt 6.573.093.000 đồng, trong đó, năm 2008 là 2.073.702.000 đồng, năm 2009 là 2.009.093.000 đồng, năm 2010 là 2.490.298.000 đồng [175, tr.2, 7-8].
Trong chính sách hỗ trợ sau đào tạo và thu hút nhân tài, từ năm 2006 đến 2010, ngoài kinh phí hỗ trợ thường xuyên, tỉnh còn dành một khoản kinh phí đáng kể để cho trên 141 người có bằng tốt nghiệp đại học loại khá, giỏi, thạc sĩ, tiến sĩ với tổng số tiền là 1 tỷ 114 triệu đồng và ưu tiên trong việc tuyển dụng, bố trí công tác đối với những người có trình độ học vấn cao tình nguyện về tỉnh công tác. Tổng kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong toàn tỉnh 3 năm (2007-2010) là 14 tỷ 560 triệu đồng. Bên cạnh chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng trong nước, Yên Bái còn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài như: cử trên 150 lượt người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn tham gia các đoàn tham quan khảo sát, nghiên cứu thực tế, học tập ngắn ngày và bồi dưỡng nghiệp vụ tại nước ngoài [76, tr.43].
Nhìn chung, công tác chính sách đối với cán bộ DTTS của các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc những năm 2006-2010 đã được triển khai khá đồng bộ. Trong thực tiễn lãnh đạo, Đảng bộ một số tỉnh có những đổi mới về nội dung, phương pháp, cách làm, góp phần khuyến khích, động viên đội ngũ cán bộ này phấn đấu, góp sức vào công cuộc đổi mới của địa phương và đất nước. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế - xã hội ở các tỉnh còn khó khăn nên việc thực hiện chính sách cán bộ nói chung, đối với cán bộ DTTS vẫn chưa theo kịp với yêu cầu xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới. Chế độ, chính sách chưa thực sự thu hút được người tài, người năng động, sáng tạo làm việc có hiệu quả.
Tiểu kết chương 2
Đội ngũ cán bộ DTTS không chỉ có vị trí, vai trò như đội ngũ cán bộ nói chung, mà còn có vị trí vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết các vấn đề về dân tộc, nhất là trong tổ chức thực hiện đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, tiến hành sự nghiệp cách mạng ở miền núi, vùng đồng bào các DTTS. Trong thực tiễn hoạch định, bổ sung, phát triển đường lối xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời đặc biệt chú ý tới tính đặc tính tâm lý tộc người, đặc điểm dân cư - xã hội, các yếu tố tự nhiên,... của mỗi cộng đồng DTTS để vừa nêu lên đường lối, chính sách chung, đồng thời có chính sách riêng với từng cộng đồng DTTS trong từng khu vực địa lý.
Đối với khu vực miền núi Tây Bắc, qua thực tiễn lịch sử, đội ngũ cán bộ DTTS ngày càng có sự lớn mạnh, có nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Từ năm 2006 đến năm 2010, các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc đã quán triệt và vận dụng quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS. Điểm chung trong chủ trương của các Đảng bộ tỉnh ở Tây Bắc là đều nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đội ngũ cán bộ DTTS và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS. Bám sát đặc điểm và yêu cầu thực tiễn của địa phương, các Đảng bộ tỉnh đã nêu lên những chủ trương, biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS, trong đó hướng trọng tâm vào bốn nội dung: quy hoạch, tạo nguồn cán bộ; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; tuyển dụng, bố trí và sử dụng; thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ. Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS được xác định rõ và sớm, ngay từ đầu nhiệm kỳ Đại hội các Đảng bộ tỉnh. Trên cơ sở đó, quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS được thực hiện với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và ý thức nỗ lực của cá nhân đội ngũ cán bộ DTTS. Nhìn chung, với những quan tâm và sự chủ động trong việc ban hành chủ trương, chỉ đạo thực tiễn, kết quả xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS tại các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc đạt kết quả tích cực. Qua 5 năm 2006-2010, đội ngũ cán bộ ở các tỉnh Tây Bắc đều có sự
Có thể bạn quan tâm!
- Chủ Trương Của Các Đảng Bộ Tỉnh Khu Vực Tây Bắc Về Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ Dân Tộc Thiểu Số
- Các Đảng Bộ Tỉnh Khu Vực Tây Bắc Chỉ Đạo Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ Dân Tộc Thiểu Số
- Thực Hiện Các Chính Sách Đãi Ngộ Đối Với Cán Bộ Dân Tộc Thiểu Số
- Những Yêu Cầu Mới Đặt Ra Trong Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ Dân Tộc Thiểu Số Ở Các Tỉnh Tây Bắc
- Quá Trình Các Đảng Bộ Tỉnh Khu Vực Tây Bắc Chỉ Đạo Đẩy Mạnh Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ Dân Tộc Thiểu Số
- Công Tác Tuyển Dụng, Bố Trí, Sử Dụng Cán Bộ Dân Tộc Thiểu Số
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
phát triển về số lượng và ngày càng nâng cao về chất lượng. Nhờ làm tốt công tác tuyển dụng, công tác đào tạo, bồi dưỡng nên trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ người DTTS được nâng lên. Không chỉ số lượng mà tỷ lệ cán bộ DTTS tham gia cấp ủy, Ban Thường vụ các cấp ở các tỉnh Tây Bắc cũng tăng lên. Điều này đã khẳng định ngày càng rõ hơn vai trò, những đóng góp của đội ngũ cán bộ DTTS vào quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh Tây Bắc.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS của các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc vẫn còn những hạn chế, bất cập. Cơ cấu đội ngũ cán bộ DTTS còn chưa đồng đều giữa các cấp. Ở các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh, cấp huyện/ thành phố, đội ngũ này nhìn chung có năng lực, chuyên môn tốt, tuy nhiên tỷ lệ này còn khá thấp. Ở cấp cơ sở, số lượng cán bộ DTTS đông, nhưng phần nhiều trong số này còn có những hạn chế về năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng có nhiều chuyển biến, tuy nhiên vẫn còn tình trạng hình thức, chưa thực sự khuyến khích cán bộ DTTS tham gia học tập, nâng cao trình độ. Do còn khó khăn về nguồn lực kinh tế - xã hội nên mặc dù đã có những quan tâm, tạo điều kiện, nhưng trong thực tế, nhiều chính sách đối với đội ngũ cán bộ DTTS chưa được thực hiện.
Quá trình lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS của các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc là sự quán triệt, vận dụng những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước phù hợp với đặc thù và yêu cầu thực tiễn của địa phương. Những kết quả đã đạt được và một số hạn chế trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS là cơ sở để Đảng bộ các tỉnh khu vực Tây Bắc trong nhiệm kỳ tiếp theo tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển về chủ trương lãnh đạo và biện pháp chỉ đạo. Mục tiêu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS phát triển, góp phần vào sự phát triển bền vững của vùng và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Chương 3
CÁC ĐẢNG BỘ TỈNH KHU VỰC TÂY BẮC LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ (2010-2016)
3.1. NHỮNG YẾU TỐ MỚI TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH TÂY BẮC
3.1.1. Những yếu tố mới tác động
3.1.1.1. Bối cảnh tình hình
Tình hình quốc tế
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong quan hệ quốc tế, cục diện đa cực với sự chi phối của các nước lớn ngày càng thể hiện rõ. Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn và là yêu cầu bức thiết của các quốc gia, dân tộc nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ, nạn khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên… buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động. Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc vẫn tiếp tục diễn ra trong điều kiện mới với những nội dung, hình thức phức tạp.
Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với nhữmg tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Tuy vậy, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tài nguyên… Các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tiếp tục quá trình xây dựng cộng đồng dựa trên ba trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội. Hợp tác giữa các nước phát triển và đi vào chiều sâu, xây dựng và khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong một cấu trúc khu vực đang định hình nhưng cũng phải đối phó với những thách thức mới.
Những đặc điểm chính của tình hình quốc tế trên tác động sâu sắc đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN nói chung và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói riêng ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS của các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc - địa bàn trọng yếu, phên dậu của Tổ quốc chịu những tác động đa chiều thuận lợi và khó khăn. Cách mạng khoa học công nghệ cùng xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ người DTTS có nhiều điều kiện thuận lợi trong học tập, nâng cao tri thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn được tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài. Nhưng mặt khác, nó cũng đặt ra những áp lực cho đội ngũ này phải nhanh chóng khắc phục những mặt hạn chế của mình, trong quá trình thực tiễn lãnh đạo ở địa phương.
Tình hình trong nước
Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001- 2010), Việt Nam đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu đề ra của Chiến lược 2001-2010 và Nghị quyết Đại hội X của Đảng (2006) đề ra đã thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên tạo ra
những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh CNH, HĐH và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải; quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhìn chung còn nhiều yếu kém. Sự tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng mà chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Tây Bắc là nơi có vị trí chiến lược quan trọng và tiềm năng to lớn. Vì vậy, trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển vùng Tây Bắc. Nhờ có chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước và sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Tây Bắc, tình hình kinh tế - xã hội của vùng đã có sự chuyển biến rõ nét. Kinh tế các tỉnh trong vùng tiếp tục ổn định và có bước phát triển khá; tốc độ tăng trưởng GDP toàn vùng năm 2010 đạt 12,55%, tăng 3,17% so với năm 2009 và vượt mục tiêu Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra; một số tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng cao. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 34,84%, giảm 0,83% so với năm 2009; công nghiệp - xây dựng chiếm 31,05%, tăng 0,79%; dịch vụ chiếm 34,11%, tăng 0,04% so với năm 2009. GDP bình quân đầu người đạt 11,75
triệu đồng, tăng gần 2 triệu đồng so với năm 2009. Thu nhập ngân sách Nhà nước trên địa bàn đạt 12.207,9 tỷ đồng, tăng 26% so với năm 2009 [18, tr.1].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì sự phát triển kinh tế - xã hội chưa thật sự xứng với sự đầu tư và tiềm năng vốn có của khu vực Tây Bắc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực Tây Bắc được xem là thấp nhất của cả nước. Phát triển nguồn nhân lực là một thách thức lớn đối với các địa phương trong vùng. Chất lượng giáo dục phổ thông và đào tạo nghề cho lao động còn rất hạn chế, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ lệ lao động qua đào tạo của toàn vùng còn thấp hơn cả nước (đạt tỷ lệ 30,2% trong khi cả nước là 40%). Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ ở các tỉnh đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn nhiều cán bộ cơ sở chưa được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn và lý luận chính trị. Toàn vùng còn trên 40% cán bộ chuyên trách chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn và 27% cán bộ, công chức cấp xã chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, gần 50% cán bộ bán chuyên trách chưa qua đào tạo [18, tr.8]. Đội ngũ cán bộ có trình độ đại học là con em các DTTS còn quá ít, trong khi đó, đội ngũ cán bộ miền xuôi lên công tác ở Tây Bắc chưa yên tâm gắn bó lâu dài, do chế độ chính sách thu hút nhân tài của các tỉnh trong vùng chưa có hoặc chưa phát huy tác dụng. Chương trình phát triển kinh tế - xã hội Tây Bắc của Nhà nước tuy đạt được kết quả bước đầu, nhưng chưa bền vững, chưa ổn định và còn khoảng cách xa so với mục tiêu đề ra.
Như vậy, bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước có những biến chuyển mới, đặt ra những tác động đa chiều, thuận lợi và khó khăn. Đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS của các Đảng bộ tỉnh khu vực Tây Bắc, bối cảnh mới đòi hỏi luôn quán triệt về vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS trong nhận thức và chỉ đạo. Để đáp ứng với đòi hỏi thực tiễn, phải xác định mục tiêu và lựa chọn những biện pháp phù hợp, chú trọng phát huy vai trò, trách nhiệm tham gia của các chủ thể chính trị, của xã hội và ý thức tự vươn lên của bản thân đội ngũ cán bộ DTTS.
3.1.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Trong giai đoạn 2010-2015, Đảng có nhiều chủ trương, chính sách nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ DTTS nói riêng. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua đã chỉ rõ những nội dung về xây dựng đội ngũ cán bộ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu” [58, tr.143].
Xuất phát từ vai trò, vị trí quan trọng của công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận về công tác quy hoạch. Điển hình là Kết luận số 24-KL/TW ngày 05-6-2012 của Bộ Chính trị về Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
Trên cơ sở quan điểm định hướng của Đảng, Chính phủ đã cụ thể hoá bằng nhiều chính sách. Tiêu biểu như Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14- 01-2011 của Chính phủ Về công tác dân tộc, tại Điều 11: chính sách cán bộ người DTTS đã quy định rõ những nội dung về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ DTTS, về trách nhiệm xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS của các cấp uỷ địa phương có đồng bào DTTS:
1. Cán bộ người DTTS có năng lực và đủ tiêu chuẩn phù hợp quy định của pháp luật, được bổ nhiệm vào các chức danh cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý các cấp.
Ở các địa phương vùng DTTS, nhất thiết phải có cán bộ chủ chốt người DTTS.
2. Đảm bảo tỷ lệ hợp lý cán bộ người DTTS, ưu tiên cán bộ nữ, cán bộ trẻ tham gia vào các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp.
3. Các Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS [39, 12-13].
Ngày 12-3-2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 449/QĐ- TTg phê duyệt Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020. Trong 8 nhiệm vụ