Quá Trình Chỉ Đạo Kiện Toàn Hệ Thống Tổ Chức Chính Quyền Các Cấp

cho việc kiện toàn chính quyền địa phương trở nên cấp thiết. Cũng từ đó mà việc tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, tăng cường nền chuyên chính dân chủ nhân dân, tăng cường hiệu lực và tác dụng của chính quyền trong việc lãnh đạo mọi mặt công tác, trong việc phát triển và cải tạo nền kinh tế theo chủ nghĩa xã hội càng ngày càng quan trọng. Để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đó thì bộ máy chính quyền cần được kiện toàn, bổ sung về cơ cấu tổ chức cho hoàn thiện hơn, thể hiện trong Thông tư 289/TTg: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của chế độ dân chủ nhân dân, có tác dụng tập hợp và phát huy những tài năng, những lực lượng sáng tạo của quảng đại quần chúng, của nhân dân lao động. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện trực tiếp cho nhân dân thực hiện và thi hành quyền hành về mọi lĩnh vực trong phạm vi địa phương và trong phạm vi luật lệ quy định. Thành phần của hội đồng nhân dân bao gồm những phần tử ưu tú trong nhân dân. Hội đồng nhân dân cần phản ánh đầy đủ tình hình sinh hoạt xã hội và tình hình giai cấp ở địa phương. Trong Hội đồng nhân dân thành phần công nông - nền tảng của chính quyền dân chủ nhân dân phải chiếm đa số. Hội đồng nhân dân xã và thị trấn ít nhất có 15 đại biểu và nhiều nhất là 35 đại biểu, Hội đồng nhân dân tỉnh và thành phố ít nhất có 50 đại biểu và nhiều nhất có 100 đại biểu.

Uỷ ban hành chính do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ quan chấp hành Nhà nước ở địa phương, Uỷ ban hành chính phải chấp hành mọi công việc và công tác ở địa phương. Uỷ ban hành chính các cấp phải bao gồm những người có năng lực, có kinh nghiệm công tác ở các ngành hoạt động và thể hiện được trí tuệ của nhân dân về mặt sản xuất và công tác, cần có phụ nữ trong Uỷ ban hành chính các cấp. Uỷ ban hành chính các tỉnh, thành phố nên có thành phần trí thức và nhân sĩ dân chủ. Tuỳ theo địa vị to hay nhỏ, dân số nhiều hay ít để định ra số lượng uỷ viên Uỷ ban hành chính các cấp, có thể như sau:

- Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố từ 11 đến 19 uỷ viên; gồm 5 đến 7 uỷ viên là bộ phận thường trực và 6 đến 12 uỷ viên là bộ phận không thường trực.

- Uỷ ban hành chính xã, thị trấn từ 5 đến 11 uỷ viên, chủ tịch và phó chủ tịch chịu trách nhiệm thường trực.

Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tập thể, một nguyên tắc cao nhất trong công tác lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, chế độ hội nghị của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp được quy định: Hội đồng nhân dân thành phố thì 3 tháng họp một lần. Uỷ ban hành chính xã, thị trấn ít nhất nửa tháng họp một lần. Về nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp thành lập bằng bầu cử dân chủ 3 năm một lần; Uỷ ban hành chính huyện, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính thị xã, thị trấn, xã thì 2 năm bầu một lần… Trong công tác, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp phải đi đúng đường lối quần chúng, đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ. Và tất cả đều xuất phát từ quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân [131, 285-290].

Thực hiện chủ trương của Trung ương về công tác chính quyền, ngày 25-3-1958, Ban chấp hành Đảng bộ Hà Nội ra Nghị quyết về nhiệm vụ công tác năm 1958 trong đó nêu rõ chủ trương công tác chính quyền của thành phố: “Củng cố hơn nữa chính quyền dân chủ nhân dân của thành phố, bảo

đảm thực hiện đúng nhiệm vụ của nền chuyên chính vô sản để xây dựng Thủ đô về mọi mặt tiến lên chủ nghĩa xã hội. Muốn củng cố chính quyền phải nắm vững phương châm dựa vào giai cấp công nhân, giáo dục đề cao tinh thần chủ nhân của công nhân và nhân dân lao động, đề cao ý thức và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, ý thức liên minh công nông, đồng thời phải giáo dục về chuyên chính vô sản trong Đảng, trong công nhân và nhân dân lao động.

Kiện toàn tổ chức và lề lối làm việc của các cơ quan chính quyền. Bồi dưỡng các đại biểu Hội đồng nhân dân để phát huy năng lực quản lý thành phố của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Năm nay cần phải bầu Hội

đồng nhân dân các xã, bầu Uỷ ban hành chính xã và Quận ngoại thành” [30, 10-11].

Sang năm 1959, Hội nghị toàn Đảng bộ họp từ ngày 21 đến 30-4-1959 (hội nghị được coi là Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Nội lần thứ nhất) đã quyết định nhiệm vụ chính trị trung tâm của Đảng bộ là: “Trong 2 năm tới, chúng ta sẽ hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh và hợp tác hoá nông nghiệp, thủ công nghiệp. Trong năm nay (1959) phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa sẽ phát triển để tiến tới một phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa cả ở nội thành và ngoại thành. Cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng bộ ta mà khâu chính là cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh với hình thức cao.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 272 trang tài liệu này.

“Đi đôi với công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, chúng ta tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh, tích cực xây dựng cơ bản, phát triển giao thông vận tải, ra sức phát triển sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp và nông nghiệp.

“Trên cơ sở cải tạo và phát triển kinh tế thắng lợi, chúng ta đẩy mạnh công cuộc phát triển văn hoá, giáo dục, cải thiện dân sinh và dần dần kiến thiết thành phố về mọi mặt”.

Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo xây dựng hệ thống tổ chức chính quyền từ 1954 đến 1965 - 7

Để đảm bảo cho công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, kiến thiết thành phố, nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ về công tác chính quyền cần “tăng cường củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, thực hiện nghĩa vụ quân sự góp phần củng cố quốc phòng, kịp thời trấn áp bọn phản cách mạng và ra sức gìn giữ trật tự an ninh chung” [46, 72].

Năm 1960, Đảng bộ Hà Nội đề ra nhiệm vụ củng cố và xây dựng chính quyền thành phố: “chuẩn bị để tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính thành phố các cấp vào những tháng cuối năm. Chúng ta sẽ nghiên cứu đề nghị với Trung ương cho mở rộng hơn nữa số đại biểu trong Hội đồng nhân dân thành phố để có thể đảm bảo liên hệ tốt với quần chúng và phát huy được tác dụng cơ quan quyền lực của thành phố. Uỷ ban hành chính khi bầu

lại cũng cần có thêm cán bộ có đủ uy tín và năng lực để thiết thực làm việc. Trước mắt hiện nay cần chấn chỉnh lại lề lối làm việc đảm bảo giải quyết công việc cho các ngành các cấp, nhất là cần chấn chỉnh lại bộ phận thường trực và khối nội chính để thực sự làm việc.

“Đối với các quận và khu phố cũng sẽ nghiên cứu và đề nghị cho được bầu Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính để thiết thực tăng cường sự lãnh đạo của chính quyền đối với địa phương. Do đó vấn đề tăng thêm nhiệm vụ và quyền hạn cho khu phố cần được nghiên cứu và giải quyết trong 6 tháng đầu năm.

“Đối với các xã ngoại thành, khi bầu lại Hội đồng nhân dân phải chú ý nghiên cứu quy định số lượng và thành phần cho thích hợp với tình hình đổi mới ở nông thôn đương tiến mạnh lên hợp tác hoá, sao cho các hợp tác xã đều có đại biểu trong Hội đồng nhân dân xã” [46, 109-110].

1.2.2 Quá trình chỉ đạo kiện toàn hệ thống tổ chức chính quyền các cấp

Trong phiên họp đầu tiên, Hội đồng nhân dân đã bầu ra Uỷ ban hành chính thành phố gồm 11 uỷ viên. Uỷ ban hành chính thành phố có các uỷ viên chuyên trách và không chuyên trách. Uỷ ban Hành chính khoá mới sau khi được Phủ Thủ tướng công nhận, đã họp trong 2 ngày 19 và 20-3-1958 để phân công nhiệm vụ, nhận xét tình hình công tác năm 1957 và thảo luận chủ trương công tác năm 1958. Ngày 1-4-1958, chủ tịch thành phố Trần Duy Hưng đã ký nghị quyết về việc phân công nhiệm vụ và lề lối làm việc trong Uỷ ban Hành chính Thành phố Hà Nội khoá mới:

Chủ tịch: Ông Trần Duy Hưng, phụ trách công tác ngoại giao Phó chủ tịch: Ông Trần Danh Tuyên

Phó chủ tịch: Ông Trần Văn Lai, phụ trách chung và làm nhiệm vụ thường trực của uỷ ban.

Và các uỷ viên:

Ông Nguyễn Tiến Đức: phụ trách khối kinh tế tài chính

Ông Hồ Đắc Điềm: phụ trách văn hoá giáo dục Ông Đặng Quân Sơn: phụ trách y tế, cứu tế xã hội Ông Lê Hữu Tân: phụ trách lợi ích công cộng Ông Bùi Gia Hưng: phụ trách lợi ích công cộng

Ông Lê Văn Quý: chuyên trách ngành công an, công tác nội chính

Bà Nguyễn Khoa Diệu Hồng: phụ trách công tác phụ nữ, nhi đồng Ông Nguyễn Bá Đoán: phụ trách công tác xây dựng chính

quyền, công tác tổ chức và công tác nông thôn, công tác nội chính [178,19-20].

Ngay khi được thành lập, Thực hiện chủ trương của Trung ương và Đảng bộ Hà Nội, Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội đã đề ra yêu cầu cụ thể về củng cố hệ thống tổ chức. Trong năm 1958 cần “củng cố hơn nữa chính quyền dân chủ nhân dân, bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ của nền chuyên chính vô sản, để xây dựng Thủ đô về mọi mặt tiến dần lên chủ nghĩa xã hội”. Cụ thể cần “kiện toàn tổ chức và lề lối làm việc của các cơ quan chính quyền. Bồi dưỡng các đại biểu trong Hội đồng nhân dân để phát huy năng lực quản lý thành phố của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nghiên cứu quy định quyền hạn nhiệm vụ của các cơ quan hành chính khu phố nhằm đảm bảo thực hiện tốt, mau lẹ mọi chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ”; cần phải “bầu Hội đồng nhân dân các xã ngoại thành, bầu Uỷ ban hành chính xã và quận ngoại thành” [177, 14]. Sang năm 1959 cần “tiếp tục tăng cường củng cố chính quyền nhân dân các cấp ở thành phố. Tiếp tục công tác kiện toàn tổ chức trong các cơ quan” [181, 23].

Từ tháng 1-1958, Thành uỷ chủ trương bỏ cấp quận, sắp xếp lại các đơn vị khu phố theo cơ sở các đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân, nhằm làm cho sự lãnh đạo của Thành được mau lẹ kịp thời, hợp với tính chất công tác ở thành phố. Nội thành được chia thành 12 khu phố, mỗi khu phố có một Uỷ

ban hành chính khu phố. Nhưng tình hình quản lý nội thành vẫn không ổn, đến tháng 5-1959, thành phố hoạch định lại 12 khu phố thành 8 khu: Trúc Bạch, Đồng Xuân, Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà, Hàng Cỏ, Bạch Mai, Đống Đa.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ Hà Nội, quá trình thực hiện của Uỷ ban hành chính thành phố, để đáp ứng yêu cầu điều hành, quản lý xã hội, hệ thống chính trị từ thành phố đế cơ sở từng bước được củng cố, kiện toàn.

ở nội thành, hình thành chính quyền 2 cấp: thành phố - khu phố; dưới là Ban đại diện dân phố nhưng không phải là một cấp chính quyền. Trong tháng 7-1958, thi hành nghị quyết của hội nghị Thành uỷ mở rộng tháng 3-1958, Hà Nội đã tổ chức các cuộc vận động bầu cử để củng cố chính quyền cơ sở. Tại 331 khối ở 12 khu phố nội thành, nhân dân đã bầu 8.252 đại biểu vào các Ban đại diện, Ban bảo vệ, tổ trưởng, tổ phó dân phố, trong đó có 1676 uỷ viên Ban đại biểu, 1247 uỷ viên Ban bảo vệ, 4371 tổ trưởng, tổ phó dân phố (1361 cán bộ là phụ nữ) [36, 7]. Đây là một cuộc vận động chính trị tương đối lớn trong nhân dân. Nó củng cố thêm những nhận thức về tình hình và nhiệm vụ trong cuộc vận động học tập trước, làm cho nhân dân Thủ đô nâng cao thêm giác ngộ chính trị, nâng cao thêm nhận thức về chính quyền dân chủ nhân dân, tăng cường đoàn kết và ý thức chủ nhân thành phố. 96% số đại biểu hộ đã đi bầu cử. Khu phố Hàng Bông (99,9%) và khu phố Cửa Đông (99,8%) là hai khu phố đạt tỷ lệ đại biểu hộ đi bầu cao nhất. Tại 120 khối (trong số 331 khối phố) số người đi bầu đạt 100%. Điều đó đã chứng minh ý thức của nhân dân Hà Nội qua cuộc vận động chính trị này.

Về mặt tổ chức, cuộc bầu cử đã củng cố thêm cơ sở của chính quyền thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Thủ đô. Trong số đại biểu trúng cử thì tới 60% là những người làm việc cũ, có nhiều người đã được tín nhiệm 2-3 khoá liền. Thanh niên lao động chiếm 10%

tổng số người trúng cử. Đảng viên ở khu phố cũng đã tham gia nhiều vào công tác khu phố. Đặc biệt ở khu Văn Miếu 28 đảng viên trong số 31 đồng chí ở chi bộ khu phố đã trúng cử. Các thành phần cơ bản cũng chiếm đa số đảm bảo chỗ dựa vững chắc cho chính quyền cơ sở.

Khu Hàng Bông là nơi tương đối tập trung người buôn bán lớn, các thành phần công nhân, thợ thủ công, lao động nghèo chiếm 35%, tiểu thương, tiểu chủ chiếm 49%, viên chức 1%, công thương gia 15%.

Khu Ô Chợ Dừa là nơi tập trung lao động thì công nhân, thợ thủ công lao động nghèo chiếm 75,4%, tiểu thương, tiểu chủ chiếm 18,2%, tiểu tư sản, trí thức, viên chức, học sinh chiếm 5,2% và công thương gia chiếm 1,2%.

Trong công tác lãnh đạo, một số nơi cán bộ cơ sở không được bồi dưỡng đầy đủ, lãnh đạo cứng nhắc lộ liễu nên gây thắc mắc trong một số đảng viên đảng dân chủ định ra tranh chấp địa vị với quần chúng của ta. Chủ trương của các chi bộ Đảng dân chủ là đưa đảng viên vào nắm các địa vị ở cở sở càng nhiều càng tốt. Nhưng một số cơ sở thiếu khéo léo, hoặc vận động họ một cách lộ liễu để họ không ra ứng cử, hoặc có nơi khu phố gọi lên giao cho công tác khác, thậm chí có anh em đã bảo thẳng họ là đừng ứng cử nữa, do đó cũng phần nào ảnh hưởng tới đoàn kết cơ sở. kết quả tới nay Đảng dân chủ được 71 đảng viên trúng cử (trước kia là 112 người).

Nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban đại biểu, Ban bảo vệ, các tổ trưởng, tố phó dân phố được quy định rõ ràng hơn trước. Ban đại biểu dân phố có nhiệm vụ phổ biến, động viên, tổ chức nhân dân thi hành các chủ trương chính sách và pháp luật của Chính phủ, phản ánh thắc mắc và nguyện vọng của nhân dân lên cơ quan chính quyền khu phố, hướng dẫn, giúp đỡ tổ trưởng và tổ phó dân phố, phối hợp với các đoàn thể trong những việc có liên quan đến lợi ích chung của nhân dân khu phố. Cùng Ban bảo vệ dân phố động viên và tổ chức nhân dân làm công tác bảo vệ trị an.

Ban bảo vệ dân phố có nhiệm vụ liên hệ mật thiết với nhân dân, thường xuyên tuyên truyền, giải thích những luật lệ và quy định có quan hệ trật tự trị an khu phố. Động viên nhân dân lập quy ước phòng gian, phòng hoả…, đôn đốc nhân dân thực hiện các quy ước đó để bảo vệ trật tự trị an xã hội. Báo cáo tình hình trật tự trị an và ý kiến, nguyện vọng của nhân dân lên cho khu công an. Hướng dẫn giúp đỡ tổ trưởng, tổ phó dân phố phối hợp với các đoàn thể làm công tác cùng Ban đại biểu dân phố làm công tác xã hội.

Tổ trưởng, tổ phó dân phố có nhiệm vụ làm công tác lợi ích chung và công tác trị an dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Ban đại biểu và Ban bảo vệ dân phố. Tổ trưởng, tổ phó dân phố sẽ tuỳ theo khả năng, hoàn cảnh và sự cẩn trọng trong công tác mà phân công phụ trách các công tác của tổ, tuy phân công rõ ràng nhưng tổ trưởng, tổ phó dân phố đều chịu trách nhiệm về mọi công tác trong tổ.

Nhờ có sự phân công rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của Ban đại biểu, Ban bảo vệ và tổ dân phố, có sự hướng dẫn cách làm việc, hệ thống tổ chức chính quyền ở khu phố đã mau chóng đi vào nền nếp, đảm bảo thực hiện hiệu quả các công việc ở khu phố.

ở ngoại thành hình thành chính quyền 3 cấp: thành phố - quận - xã. Chính quyền là công cụ để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Chính quyền xã là công cụ chuyên chính chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Chính quyền xã là nền tảng của chính quyền nhân dân dân chủ chuyên chính, là biểu hiện cụ thể khối liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền xã là cấp chính quyền sát nhân dân nhất, trực tiếp thi hành các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ trong nhân dân. Nông dân thường căn cứ vào công tác thực tế của chính quyền xã mà có ý kiến, nhận xét, đánh giá các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, và tỏ rõ thái độ của họ đối với chế độ, với Đảng và Chính phủ.

Xem tất cả 272 trang.

Ngày đăng: 24/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí