Sự Khai Thác Các Chất Liệu Văn Hoá Và Ngôn Ngữ Thơ Ca


2.4. Sự khai thác các chất liệu văn hoá và ngôn ngữ thơ ca

2.4.1. Những giá trị văn hoá truyền thống trong thơ Nguyễn Khoa Điềm

Nói đến Nguyễn Khoa Điềm, ai cũng dễ dàng hình dung ra một phong cách thơ đẫm chất triết luận xuất phát từ vốn tri thức uyên bác và bề sâu văn hoá trong mối liên tưởng vừa sắc sảo triết lí lại vừa huyền ảo thấp thoáng bóng dáng văn hoá cổ xưa của hồn dân tộc. “Thơ ca nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ” [39,tr.255]. Nguyễn Khoa Điềm lại được sinh ra và lớn lên giữa lòng chiếc nôi văn hoá Huế. Chính cái chất Huế thâm trầm, hoàng thành rêu phong ngả bóng làm nhuộm tím nước con sông Hương biếc xanh càng khiến thơ Nguyễn Khoa Điềm sâu kín và loáng thoáng chút bí ẩn mơ hồ. Nguyễn Xuân Nam đã có một nhận xét khá rò nét: “Thơ Nguyễn khoa Điềm... có sức liên tưởng mạnh. Anh thường dẫn người đọc đi từ quá khứ đến tương lai, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ sách vở đến đời sống”.[20, tr.125]. Giàu vốn tri thức sách vở Đông Tây, ngồn ngộn chất liệu đời thực là một thế mạnh tạo nên nhiều khoảnh khắc loé sáng trong những liên tưởng độc đáo của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trong tiểu mục này, chúng tôi tập trung vào việc phân tích các biểu tượng văn hoá trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Qua nghiên cứu thơ Nguyễn Khoa Điềm, chúng tôi xin được rút ra những giá trị văn hoá truyền thống được ông sử dụng khá nhiều trong các sáng tác của mình: đó là.

Trong chương Đất Nước, ngôn ngữ thơ được sử dụng từ chất liệu văn học dân gian với tần số lớn. tuy nhiên chất liệu văn học dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không còn trong chính dạng bản thân của nó, một sự sao chép sản phẩm cộng đồng mà nó đã được chuyển hóa vào lời chữ, giọng điệu, cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ tạo nên bản sắc riêng trong thơ ông.


Chúng ta có một kho tàng ca dao tục ngữ đậm đà phong vị trữ tình, kết tinh những tình cảm cao quý của nhân dân, những kinh nghiệm lao động sản xuất và đấu tranh. Ca dao tục ngữ đã thấm vào Nguyễn Khoa Điềm một cách tự nhiên trong cách nhìn nhận về Đất Nước – một đất nước giàu truyền thống văn hóa. Dấu tích của ca dao tục ngữ liên tục được triển khai trong mỗi câu thơ. Lí giải về cội nguồn của Đất Nước, nhà thơ bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Đó là một loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:

Đất Nước có trong những cái “ ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể.

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên

Đặc sắc thơ Nguyễn Khoa Điềm - 10

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó...

Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hoá truyền thống mang theo hơi thở tâm tình của ca dao “Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” thấm thía tình nghĩa thuỷ chung. Mạch nguồn ấy tiếp tục quá trình trưởng thành của từng cá nhân, từ thuở cắp sách đến trường, đến khoảnh khắc rung động đầu đời. Tất cả đều xuất phát một cách rất tự nhiên, nôn nao ngọt ngào kỉ niệm:

Đất là nơi anh đến tường Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.


Đan xen với khoảnh khắc thời gian, không gian hiện tại là sự thức tỉnh của ý thức cộng đồng, với sự tổng hoà những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt. Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về cha Rồng mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt:

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi chim về

Nước là nơi rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Và vì thế, cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên luôn nhắc nhở mọi người Việt rằng:

Hàng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

Bái vọng tổ tiên, yêu quê cha đất tổ, chính là những yếu tố góp phần làm nên truyền thống yêu nước Việt Nam.

Những câu thơ hình như không có gì. Câu nào cũng diễn lại ca dao, tục ngữ, cổ tích mà sao đọc lên vẫn thấy âm vang, thấm thía và xúc động? Những điều hiển nhiên như chân lí bỗng sáng lên giá trị vĩnh hằng, sức trường cửu của dân tộc trên số phận của mỗi người dân vô danh trong lớp lớp thời gian. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước được phô bày với tất cả vẻ đẹp lung linh của truyền thống văn hoá vừa gần gũi, cụ thể vừa thiêng liêng, huyền ảo. Nguyễn Khoa Điềm đã biết khai thác chất liệu văn học dân gian ở những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết có tác dụng như việc sử dụng các điển tích, điển cố văn học nhằm làm cho ngôn ngữ thơ thêm cô đọng, hàm xúc, tạo nên màu sắc dân gian rất riêng cho thơ ông.


Nhà thơ đã khơi dậy những trầm tích đã đắp bồi nên Đất Nước để thổi bùng ngọn lửa tự hào, yêu nước trong lòng tuổi trẻ đô thị miền Nam những năm Đất nước còn bị chia cắt. Dụng công của tác giả là lấy những chất liệu văn hoá dân gian – cái đặc trưng nhất để làm bật lên tầng sâu văn hoá lịch sử của đất nước mà không một thế lực nào, hiểm hoạ nào có thể xói mòn, sụt lở. Đất nước như thế hiển như một thứ gia tài thiêng liêng của tổ tiên để lại cho con cháu. Mọi hình sông thế núi, sự tích huyền thoại đều được soi nhìn từ khát vọng gửi gắm, trao truyền cho các thế hệ nối tiếp đến vô tận vô cùng.

2.4.2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ Nguyễn Khoa Điềm

Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ thơ Nguyễn Khoa Điềm qua các tập thơ Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng (trường ca), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Còi lặng, chúng tôi nhận thấy đó không phải là thứ ngôn ngữ thật hoa mĩ, cầu kĩ nhưng lại được chắt lọc và mang nhiều hàm nghĩa sâu xa, ẩn tàng trong đó. Đó là một hệ thống ngôn ngữ mang màu sắc văn hoá Huế truyền thống và chiều sâu thế giới tâm linh, nội cảm của con người.

Cái hồn Huế đã đi sâu vào trong bản chất con người Nguyễn Khoa Điềm và bật lên thành tiếng thơ. Chính bởi vậy mà những địa danh, trầm tích xứ Huế đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm tự nhiên đến bất ngờ. Những tên núi, tên sông, tên đường, tên phố... cứ như tự nguyện theo nhau mà gọi về, mà ở lại trong thơ. Tiếng gọi Huế tha thiết, cháy bỏng cất lên tự sâu thẳm trái tim nhà thơ:

Tự bao giờ... Huế của ta ơi Trời thu xanh thẳm mặt kỳ đài Cờ ta lên đỏ nền cung cấm Sông núi reo vang: Độc lập rồi!

(Mặt đường khát vọng)


Một loạt những địa danh xuất hiện như một sự thôi thúc, giục giã xuống đường tranh đấu:

Anh em ơi Xuống đường!

Trần Hưng Đạo gối lên Phan Bội Châu Phan Bội Châu nối tay Huỳnh Thúc Kháng Qua cầu là Chi Lăng, Nguyễn Du

Vào Đại nội có Mai Thúc Loan, Đoàn Thị Điểm Như những câu thơ giàu liên tưởng

Giàu tình yêu

(Mặt đường khát vọng)

Cũng vẫn là hình ảnh cầu Trường Tiền quen thuộc trong lòng thành phố Huế nhưng khi đi vào thơ, nó như được khoác vào những dáng vẻ, ấn tượng mới nhờ vào cách tổ chức câu cú, cách liên tưởng, cách kết hợp ngôn từ độc đáo, khác lạ. Cũng từ những hình ảnh, câu chữ này, Nguyễn Khoa Điềm đưa ta miên man đi vào những trường liên tưởng phong phú, đa chiều, làm nảy sinh những ý nghĩa, cái nhìn mới từ một sự vật thông thường:

Và cầu Trường tiền Như một dấu nối

Giữa đất đai - đất đai

Giữa con người – con người Giữa hôm nay - lịch sử Giữa anh – em

Tiếng địa phương vùng miền nào cũng có. Phương ngữ đó cũng còn là nơi chứa đựng các yếu tố văn hoá, phong tục tập quán, sinh hoạt xã hội của con người và một vùng đất. Phương ngữ Huế không chỉ đơn thuần là khẩu ngữ của người Huế mà nó đã bước vào văn học nghệ thuật, vào thơ ca với vẻ


mới lạ và độc đáo. Trong thơ Nguyễn khoa Điềm, những phương ngữ Huế xuất hiện như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người và xứ Huế:

- Ôi thành phố yêu thương Ta xa người thế nớ

- Ta yêu người như rứa

Đưa người về cho ta...

- Bạn chừ đóng gạch nơi nao

Văn chương lấm láp, vêu vao mặt người.

Phương ngữ Huế khi nghe bằng lời có thể gây khó hiểu, có khi gây cười cho người nghe. Thế nhưng, vẫn những từ răng, chừ, rứa, ni, dị... khi được đi vào thi ca, thì nó lại mang một vẻ đẹp, một sức sống mới. Âm thanh phương ngữ Huế rất đậm đà cô đúc, như có ý thẹn thùng, hờn mát, thi vị, dễ thương.

Để sử dụng thành công những từ địa phương trong thơ là không hề dễ dàng bởi nếu dùng quá nhiều thì bài thơ sẽ nôm na, mất tính khái quát. Trong thơ của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng đúng chỗ, đúng “liều lượng” để không những thể hiện niềm tự hào về tiếng nói quê hương xứ sở mình mà còn vinh danh, khiến nó trở thành bất tử trong thơ.

Nguyễn Khoa Điềm dù trầm tĩnh bởi phong cách Huế kín đáo nhưng trước những đòi hỏi của hiện thực, đôi khi nhà thơ cũng thoát ra khỏi những từ ngữ khuôn mẫu, thanh tao để chiếm lĩnh hiện thực cần phản ánh: những lon đồ hộp, khẩu phần A,C, bẩn thỉu, trần truồng trước nhân loại, hoá chất, điện tử, phô- tông, thú tính, dâm ô thành lý tính, tim rung, phổi nám, thắt ruột té re... Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm đã chắt lọc trong ngọn nguồn văn hoá dân gian, văn hoá Huế trong nhiều hình thức nghệ thuật đặc sắc để có thể lẩy ra được những từ ngữ giàu ý nghĩa biểu cảm và hàm ẩn, đa nghĩa. Nói đúng hơn, Nguyễn Khoa Điềm đã nhào nặn ngôn ngữ bình dân trong những chiếc khuôn cú pháp lạ kiểu, trong những cách kết hợp ngôn từ nhiều bất ngờ, mới mẻ khiến cho thơ ông vừa mang vẻ đẹp truyền thống lại vừa có vẻ tân kì hấp dẫn gây ấn tượng nơi người đọc.


Chương 3

MỘT CHẤT GIỌNG TRỮ TÌNH SUY TƯỞNG, CHÍNH LUẬN VÀ TRIẾT LÝ MANG DẤU ẤN CÁ TÍNH

Thuộc thế hệ trí thức trẻ thuần khiết đầu tiên của nền Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm là một người có trí tuệ sắc sảo, vốn tri thức sách vở phong phú, cùng với sự trải nghiệm qua thử thách chiến tranh và một hồn thơ nhiệt huyết lý tưởng. Chính vốn sống, vốn tri thức và trạng thái tinh thần của thời đại ấy đã thăng hoa và để lại ở ngôn ngữ sáng tạo của nhà thơ một chất giọng trữ tình suy tưởng, chính luận và triết lí vừa mang dấu ấn một thời vừa mang dấu ấn cá tính đặc sắc.

3.1.Chất giọng của thời đại và phong cách sáng tạo riêng 3.1.1.Phong cách và phong cách thời đại

Khái niệm phong cách nói chung và phong cách trong văn học nói riêng là một vấn đề phức tạp. Dù đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ lâu nhưng khó có thể khẳng định rằng khái niệm phong cách đã được định hình một cách dứt khoát. Một mặt , còn rất nhiều vấn đề cần thảo luận, bàn bạc để đi đến thống nhất; mặt khác, ngay bản thân khái niệm phong cách cũng không phải là một yếu tố cố định, bất biến mà ngày càng được mở rộng nội hàm theo sự phát triển của nghành nghiên cứu văn học. Xung quanh thuật ngữ này, lâu nay có rất nhiều định nghĩa, quan niệm phong phú đa dạng.

Ở phương Tây ngay từ thời cổ đại với đại biểu xuất sắc như Platon, khái niệm phong cách đã được nghiên cứu và vận dụng. Bước sang thế kỉ XIX đặc biệt là thế kỉ XX, khái niệm phong cách ngày càng được quan tâm sâu sắc. Theo Khrápchencô, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phong cách văn học. Các định nghĩa này “ thừa nhận phong cách là một phạm trù lịch sử

- thẩm mỹ rộng lớn, bao quát nhất”, đồng thời “ nhìn nhận nó như những đặc điểm của những tác phẩm riêng lẻ” [26].


Buffon cho rằng: “ Phong cách chính là người” mỗi nhà văn thường có một tạng riêng.

Viện sỹ Likhatsep trong cuốn Thi pháp văn học Nga định nghĩa “ Phong cách là một hệ thống hình thức và nội dung nhất định, là nguyên tắc thẩm mỹ để cấu trúc toàn bộ nội dung và hình thức”. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật. Trong khi đó, V.Đneprop lại cho rằng phong cách được coi như là hình thức toàn vẹn có tính nội dung. Ông phát biểu: “ Phong cách là mối liên hệ của những hình thức, mối liên hệ đó bộc lộ sự thống nhất của nội dung nghệ thuật”.

Sau khi nêu và phân tích hàng loạt những nhận định khác nhau về phong cách, Khrápchencô đã đưa ra những luận điểm cơ bản, có tính chất xâu chuỗi vấn đề:

- Phong cách biểu hiện những đặc điểm của cá tính sáng tạo của nhà văn, sự hoàn chỉnh nhận thức của nhà văn về cuộc sống, của cách nhìn của nhà văn đối với thế giới.

- Cá tính sáng tạo của nhà văn liên quan chặt chẽ với người sử dụng những thủ pháp và những phương tiện khác nhau của sự thể hiện nghệ thuật cách nhìn nhận cuộc sống một cách hình tượng.

- Phong cách được hiểu như cách biểu hiện sự khai thác hình tượng đối với hiện thực, như cách biểu hiện sự tác động tư tưởng – tình cảm, không thể đồng nhất với hình thức của tác phẩm. Ngoài các yếu tố hình thức, phong cách còn bao gồm cả những đặc điểm của sự thể hiện tư tưởng, đề tài, của sự khắc hoạ các nhân vật, những yếu tố âm điệu của tác phẩm nghệ thuật. Đặc trưng của phong cách không phải là bản thân những yếu tố riêng lẻ mà là sự kết hợp giữa chúng...

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 04/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí