3.3. Giọng trữ tình chiêm nghiệm và tự bạch
Thơ hay không phải vì cái áo ngôn từ bay bổng mà hay bởi tính triết lý đằm sâu. Còi lặng của Nguyễn Khoa Điềm là như thế. Lời thơ chân thật, tuôn trào tự nhiên trong từng sát na. Nhưng ẩn bên trong là “ động”, cái “động” nhân tình, suy tư, chiêm nghiệm của một chủ thể triết luận sắc sảo. Đón nhận chuyến ngược dòng trở về Còi lặng, người đọc như bị mê hoặc trước một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm.
Một thời gian dài, tính từ tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Nguyễn Khoa Điềm mới xuất bản tập Còi lặng (2007). Còi lặng được viết trong nguồn cảm hứng trở về, sau cuộc giã từ chính trường, “chia tay với điện thoại bàn, cạc- vi- dit, nắm đấm mi- cro”, sống trong tự do “ một mình một ba lô và xe đạp”. Bây giờ, “ gió gọi anh đi” để anh trở lại là “ một người trong mọi người”. Vì thế, nỗi niềm, giọng điệu của Còi lặng rất thật. nó như là những lời tự vấn, tự nhủ, sám hối của nhà thơ trước cuộc đời.
Qua cuộc nói chuyện giữa hai nhà thơ Thanh Thảo và Nguyễn Khoa Điềm (do Trần Đăng ghi lại), chúng ta mới thấu hết tâm sự của một người khi trở lại với quê hương, với thơ:
“Bây giờ cần phải có một dòng “văn học sám hối” ông à. Tôi ủng hộ ông tiếp tục làm thơ theo xu hướng đó, song ông mà dấn thêm điều này nữa thì mới ... hoành tráng. Đó là, thi thoảng mình cũng nhớ đến “ nắm đấm mi- cro và điện thoại bàn”, nhớ “ giày đen, cà vạt” nữa chứ ông! Có thể ngay thời điểm này thì ông không nhớ đến ba cái thứ lằng nhằng ấy, song một năm nữa chẳng hạn, ông lại nhớ đến nó cho coi! Điều đó cũng bình thường thôi. Và khi ông “ nhớ” những thứ ấy mà thành thơ được, ông mới chính là ông. Tôi tin rằng những bài thơ kiểu như thế sẽ rất hay vì nó đẩy con người đến chỗ tận cùng của sự trần trụi. Không sợ hãi và không che đậy”.
Ở Còi lặng, người đọc nhận ra được một hình tượng nghệ thuật có dáng dấp con người thực của tác giả - cốt cách của một thi nhân. Những trăn trở từ đáy lòng đều được cởi trói. Người thơ ấy hoà vào mọi người, vào quê hương để soi chiếu gương mặt của mình, đứng trong hiện tại mà chiêm nghiệm, ngẫm suy.
Không cầu kì về hình thức, câu chữ tự nhiên, đời thường, ít thủ thuật phân cắt con chữ, ông hoá giải hình thức thơ ca bằng những đào sâu chiêm nghiệm. Những chiêm nghiệm bắt nguồn từ mạch ngầm kí ức:
Nhà thơ cúi xuống tìm những hạt mồ hôi bỏ quên trên mặt đất Bao người đã mất, đang còn
Có thể bạn quan tâm!
- Những Tâm Sự, Những Trải Nghiệm Thế Sự Và Nhân Tình Mang Màu Sắc Truyền Thống Và Văn Hóa Huế.
- Sự Khai Thác Các Chất Liệu Văn Hoá Và Ngôn Ngữ Thơ Ca
- Giọng Trữ Tình Chính Luận Trong Thơ Nguyễn Khoa Điềm
- Đặc sắc thơ Nguyễn Khoa Điềm - 13
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Sống âm thầm sau rặng tre khuất lấp Không một dấu vết
Những mặt ruộng nứt nẻ.
(Những cánh đồng buổi chiều)
Hành động “ cúi xuống” đã nói hết sự trân trọng của nhà thơ đối với những gì “ đã mất, đang còn” của thân phận con người. Câu thơ dài, ngắn đan xen như chính từng giọt lòng của ông tan chảy vào đời.
Những chiêm nghiệm trong Còi lặng được hành động hoá để đến và đi từ chốn thực thực hư hư như dòng sông Hương huyền thoại trôi mãi trong tâm khảm con người:
Anh trôi đi
Không bắt đầu, không kết thúc, không bờ bến Anh mang tự do của nước đến với cuộc đời
Như sông từ hữu hạn đến vô hạn Để mãi mãi có mặt
Để sống Bên người
Phải chăng sông Hương?
(Sông Hương)
“ trôi” ngỡ hồ nhẹ nhưng không nhẹ vì cái đích của nó là không cùng.
Nhà thơ “trôi” với tư thế rất riêng:
“Anh nằm cong như một con thuyền neo bên sông”. Tư thế trở trăn của một tâm hồn “ Thơ ta, ta gửi đến bao người” dù đã “ hăm hở đôi vai tuổi tác” nhưng vẫn “ Bằng bước chân chậm rãi/ Nhà thơ lặng lẽ nối gót người nông dân đi mãi”
Để “quẫy đạp một hành trình mới”. “Cả người nằm trong đất, cả người đang đi trên đường/ Chúng ta nhìn đời bằng ánh mắt ngay thẳng/ Bởi chúng ta là người chiến thắng”.
Một hành động, một tư thế, một hành trình vô tận... như thế rất thiết thực cho thơ và cho cả người thơ. Ngay trong cơn buồn đau, hư tàn, với Nguyễn Khoa Điềm vẫn là hy vọng: “Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành/ Nỗi buồn đánh thức hy vọng” (Hy vọng). Nơi tàn nhẫn nhất, buồn nhất lại là “ còi lặng ”để cọ xiết lòng mình trước âm ba cuộc sống.
Nhà thơ xem cuộc trở về này là một “định vị”. Mà quả đúng thế! Một người quả quyết “ hút tâm trí đường bơi những con bống cát”, “ đi mãi vào cánh đồng buổi chiều”, chỉ còn lại “ anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ” để khoáng đạt còi tâm mình: “ Giấc mơ xưa dù bao dâu bể / Bên thềm xuân còn một nhành mai”. Cho nên, những hình ảnh con sông quê hương, cây long não nhà bạn, cánh đồng làng, cố nhân... trong thơ ông đều chất chứa tâm sự. Khi bạn lục đục vào nấu ăn, một mình nhà thơ với cây long não cũng trở thành câu chuyện cuộc đời:
Cây long não già mà lá trẻ Như ta giữa cuộc đời này... Năm tháng bên nhau
Nhận lấy phần bụi bặm Trả ta hương lành
Và một chút gì sâu xa Không rò nữa.
(Ngồi với cây long não nhà bạn)
Như vậy, kí ức trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là kí ức – hành động chứ không phải kí ức – dĩ vãng. Nguyễn Khoa Điềm viết Còi lặng nhưng đâu phải là chốn nhàn hạ, trốn mình mà là chốn sôi động của tâm hồn. Về với Còi lặng để giao cảm giữa mình với đời, để khẳng định bản lĩnh và nhân cách của một thi sĩ. Nên chuyến về này là “ chuyến về” để tiếp nối lộ trình con người:
Anh gọi đó là chuyến về không hạn định Để là một người trong mọi người
Anh tham dự trận tấn công cuối cùng Vào cái chết
Hãy lộn ngược da anh Và ghi lên đó mật khẩu:
- Không lùi bước!
(Bây giờ là lúc...)
Dù “ Mắt mũi ngày càng kém / Chữ nghĩa rậm rịt điều cao xa / Bao giờ, nơi nào, anh đọc được mình / Qua nỗi đau nhân loại?” (Những quyển sách), nhà thơ vẫn không ngừng bước tiếp. Đấy là sự thiết lập tương hỗ giữa nhà thơ với cuộc thế. Người đọc có thể chưa hào hứng với tính “ vô tư” câu chữ của Còi lặng nhưng lại bị lôi kéo bởi lớp trầm tích trong đó. Những hình ảnh, con người đời thường, những chớp nhoáng của nỗi nhớ, của sự luyến tiếc pha chút ân hận... lôi kéo đầy ma mị.
Những cảm hứng thế sự được nhìn nhận qua lời thơ thầm ẩn như “ mùi thơm lúa khoai thân thuộc” mà lại tái tê, se thắt. Ông chợt nhận ra mồ hôi quá rẻ rúng trước cuộc sống đầy cạm bẫy và rỗng rênh:
Khi mồ hôi trở nên quá rẻ
Kẻ ranh ma trở nên quá giàu.
(Cánh đồng buổi chiều- Còi lặng)
Sự sống được liệt kê, phơi bày ra hết thảy:
Hung bạo trên mạng, trên sàn diễn, trong lớp học
Hung bạo giữa bàn nhậu, cửa sau công sở, hung bạo đường phố Hung bạo văn chương, tố giác nặc danh
Lạng lách thời thượng và sành điệu.
(Nghe tin hai nhà khoa học bị tai nạn xe máy) Và trong cuộc sống hỗn độn ấy, mạnh yếu trở thành hý trường: Những kẻ mạnh luôn đánh thắng
Những kẻ yếu luôn đổ máu?
Kẻ mạnh chiếm đa số trong nghị viện Kẻ yếu bị rượt đuổi trên đường phố?
.....
Kẻ mạnh ném bom ở Afghanistan, Irăk Kẻ yếu gom từng chút tự do gãy nát Thế kỷ 21
Phải chăng thế kỷ của kẻ mạnh?
Theo Bakhtin, bản chất của thơ ca là bày biện thế giới nội tâm của người nghệ sĩ. Tuy nhiên, hình tượng nhân vật trữ tình và tác giả đời thực dù có giống nhau nhưng không hoàn toàn trùng khít. Hình tượng nhân vật trữ tình luôn bị chi phối và kiểm soát bởi ý thức của tác giả. Bởi vậy, Còi lặng ấy đâu chỉ dành riêng cho ông mà nó còn dành cho người đọc. Những sát na Còi lặng vô cùng quý giá. Còi lặng giúp con người chiến đấu với chính mình: “ Để mình còn là mình / Mình là sự sống” (Sự sống).
Sự tự thể hiện suy nghẫm của mình ở Còi lặng đưa thơ Nguyễn Khoa Điềm đến cách thể hiện trực diện. Ông đã nhìn uyên thâm đằng sau bức màn nhung của chính trường sự thực đầy những quằn quại về thân phận nhân sinh. Sự trở về của một cái tâm sáng, một người mạnh mẽ “ Chào anh công chức rời những tờ giấy nặng” để làm mới cuộc đời mình:
Rồi con nhớ lại trong đời con cũng đã từng đứt bữa Cũng đã từng lấy cơm chấm cơm
Mỗi hạt cơm còng một củ sắn, củ khoai hoặc chỉ là rau dại Lúc đó mỗi hạt cơm trong miệng con thật ngọt bùi, thơm thảo Con không cần ăn đến sơn hào hải vị
Để biết đến vị ngon có thể có trong đời
Chỉ cần trong một sát- na con biết lắng mình vào cuộc sống Một hạt cơm là cả cuộc đời.
(Tập thiền)
Thiền như là một cái gương vô hình của cuộc sống. Điều cơ bản là người ta ngộ được chân lý thiền. Hướng đến còi thiền là hướng đến sự thiện tâm. Tâm giác ngộ thiền. Thiền làm tâm sáng. Ngay trong bữa cơm, Nguyễn khoa Điềm nhận ra chân lý thiền. Đó là sự giác ngộ của một tâm hồn đau đáu với cuộc sống nhân sinh khi soi vào cái mơ hồ - Còi lặng - chốn sâu nhất của bản ngã để tìm gương mặt mình: “ Anh soi thấy mặt mình / Với nỗi buồn trong sạch” (Còi lặng)
3.4. Giọng trữ tình triết lý trong thơ Nguyễn Khoa Điềm
Thơ ca đang đi trên con đường vô hạn của nó. Những cuộc đổi thay đều cần thiết cho gương mặt của nền thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, dù có cách tân, khoác lên nó chiếc áo hậu hiện đại hay là gì gì đi chăng nữa, thơ bao giờ cũng cần tính triết lý. Những đòi hỏi đó không thể chối bỏ và vĩnh cửu. Bàn về vấn đề này, Hồ Thế Hà nhận định:
“Chất triết lý trong thi ca, đặc biệt ở những nhà thơ lớn, bên cạnh kiểu tư duy thuận lý, dường như bao giờ cũng thể hiện sự nghịch lý nhưng là sự nghịch lý nằm trong tính toàn thể của nó, bao gồm cả hình thức và nội dung, để cuối cùng người đọc nhận ra một nét riêng, một phong cách đặc biệt từ sự hài hoà này”.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu tính triết lý. Một thứ triết lý đầy bản thể với trách nhiệm và ý thức đích thực của người làm ra nó.
Ngoài sự nồng nhiệt trong tình cảm, thơ Nguyễn Khoa Điềm còn luôn đằm sâu trong suy nghĩ. Nguyễn Khoa Điềm chú trọng quan sát hiện thực đời sống để nắm bắt được những chi tiết rất nhỏ nhưng có sức khái quát cao.Ta có thể bắt gặp trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, từng chi tiết, từng hình ảnh cụ thể của cuộc sống Huế, con người xứ Huế cũng sẽ được khái quát lên thành những triết lý sâu sắc nhiều ý nghĩa. Trong bài Những đồng tiền ngoại ô với hình ảnh cái quán nghèo ở ngoại ô Huế như cái phao làm chuẩn trôi bập bềnh trên mức sống của người dân lao động nghèo dưới chế độ cũ:
Những đồng tiền ngoại ô Đẫm mùi mồ hôi, dầu mỡ Mùi nước mắm, cá khô
Cái nhàu trong bàn tay em nhỏ
Cái tròn vo trong cạp quần cụ già.
...Ngoại ô mua nước mắm chai là ngày lĩnh lương Ngoại ô mua kẹo nuga là ngày lĩnh lương
Ngoại ô ăn ruốc từng đồng là ngày cuối tháng Ngoại ô uống rượu chửi con là ngày cuối tháng.
Nguyễn Khoa Điềm đã dùng chi tiết nhỏ những đồng tiền để khái quát nên cuộc đời của người dân mất nước; từ những gì đơn sơ thân thuộc: lời ru của mẹ, chuyện kể của bà, luỹ tre xanh, cái kèo cái cột...Nguyễn Khoa Điềm đã dựng nên hình tượng Đất Nước; hay từ một chuyện văn hoá bến sông, bãi cồn, Nguyễn Khoa Điềm nêu lên những trải nghiệm, triết lý thật sâu sắc:
Nước mặn lên lúa héo ở bên cồn
Mẹ vẫn dặn “ đổi nước ngọt” chứ đừng “bán nước”
(Đất ngoại ô)
Lời mẹ dạy con xuất phát từ sự cần thiết của nước ngọt trên những bãi ngô ven thôn Vĩ Dạ nhưng ẩn ngầm trong đó là bài học về tình yêu quê hương, đất nước, về lòng tận trung và trong sạch; từ hình ảnh một chú bò hồn nhiên gặm cỏ trong chiều Hương giang dựng nên bức tranh quê hương yên ả thanh bình:
Nhưng chiều nay con bò gặm cỏ
Bên dòng sông như chưa biết chiều tan Tôi với nó lặng im bè bạn
Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương giang.
(Chiều Hương giang)
Là người có tư chất thông minh, lại có vốn sống phong phú, Nguyễn Khoa Điềm có khả năng nắm bắt rất đúng cái thần của sự việc. Ông có những phát hiện khái quát sâu sắc về dân tộc, thời đại, về cuộc sống, về con người. Dường như những triết lý nhân sinh đã trở thành một đặc trưng trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm. Từ những quan sát, nhà thơ đã tư duy để tìm ra những quy luật khách quan của cuộc sống, quy luật nội tại của tình cảm và lý giải bằng những hình tượng thơ sinh động. Từ việc quan sát mẹ và quả, Nguyễn Khoa Điềm có những phát hiện chính xác và lí thú:
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
(Mẹ và quả)
Phải qua suy tư và chiêm nghiệm nhà thơ đi đến nhận thức: Những quả cây không còn vô tri, vô giác mà trở nên có hồn trĩu nặng tình cảm ơn nghĩa, nên mang dáng giọt mồ hôi mặn/ nhỏ vào lòng thầm lặng mẹ tôi. Liên tưởng đến bản thân, Nguyễn Khoa Điềm xoáy vào niềm âu lo không đền đáp được lòng mong mỏi của mẹ: Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn là một thứ quả non xanh.