Tái Hiện Những Khung Cảnh Sống, Những Nét Đặc Thù Văn Hóa.


cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có yếu tố bao trùm và là yếu tố bất biến từ trước đến sau cách mạng tháng Tám: đó là tư tưởng suốt đời săn tìm cái đẹp của con người” [27, tr194]... Trân trọng, chắt chiu cái đẹp trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật- Con người tôn thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa đó đã có những phát hiện hết sức mới mẻ, vừa tinh tế vừa hấp dẫn về cái đẹp nhiều khi khuất lấp và mơ hồ trong cuộc đời. Đặc điểm này thể hiện phong phú và luôn sống động trong nhiều sáng tác của Nguyễn Tuân trong Yêu ngôn.

3.1. Cái đẹp và những giá trị văn hóa:

3.1.1. Trân trọng tài hoa và cái đẹp:

Là người say mê cái đẹp, Nguyễn Tuân luôn bày tỏ lòng ngưỡng mộ những cốt cách tài hoa nghệ sĩ, những con người có tư thế sang trọng bởi sinh ra trong một đất nước có hàng nghìn năm văn hiến. Ngay từ thưở Vang bóng một thời , Nguyễn Tuân đã đi vào những chủ đề thách đố đối với văn chương mà ít nhà văn dám bước vào: nghề ăn chơi, nghề đao phủ, nghề trộm cướp, nghề uống trà, nghề thả thơ, nghề đánh thơ, nghề sống... và Nguyễn Tuân đã nâng tất cả những ngành nghề ấy lên hàng nghệ thuật. Gắn với những nghề ấy là những con người dù họ trong sạch, thanh cao hay tăm tối, mê lạc, tội lỗi, dù họ là ông Huấn Cao, cụ Kép làng Mọc, cụ Sáu hay là Bát Lê, Lý Văn, Phó Kình..., thì những con người ấy đều có một điểm chung, chung nhau chữ nghề, họ là những tay nghề, những nghệ sĩ trong nghề của mình, trung thành với cái đẹp. Tiếp tục quan niệm ấy đến Yêu ngôn, những con người tinh hoa độc đáo, tài hoa nghệ sĩ cùng các thú chơi, lối sống của kẻ mang phong vận kỳ tài vẫn là những nhân vật lí tưởng của Nguyễn Tuân.

Người chủ đồn điền trong Lửa nến trong tranh là một con người đặc biệt. Có một sản nghiệp đáng giá nhưng niềm đam mê của ông không phải là việc làm giàu. Ông có một cái “cốt tài tử”, đó là thú ham sưu tầm tranh cổ.


Vào nhà ông “ người ta tưởng đấy là một nhà bảo tàng chứa tranh Tầu”. Tiền của mỗi vụ cà phê thu về rất nhiều nhưng ông đều cho đi mua tranh hết, đến nỗi “ người ta ngờ việc mở đồn điền chỉ là một cái cớ và mục đích muốn đạt được thì phải là một bảo tàng Viện cổ họa Trung Quốc kia”. Đã từ rất lâu rồi, ông ao ước được sở hữu một bức tranh quý, “nó vẽ một ông tướng già đang ngồi xem sách đêm trong quân trướng. Trên án sách có một ngọn nến cháy trên đế son. Góc phải bên án, có vẽ một thanh bảo kiếm tuốt trần ghếch lên cái hộp tướng ấn...”. Và lần này, để thỏa nguyện, ông cho người đi lùng bằng được bức tranh dù phải bỏ ra một khoản tiền rất lớn. Khi bức cổ họa được đưa về, niềm hạnh phúc tràn trề của ông lại bị thay bằng nỗi thất vọng bởi bức tranh không còn nguyên bản, nó đã bị đánh tháo mất ruột, nghĩa là cái chỗ quý giá nhất đã không còn. Ông không tiếc tiền mà “ chỉ hận tiếc mình đã chẳng có duyên với vật báu”. Và để cho bức tranh cổ họa được một lần cháy sáng, ông đã chấp nhận sự hi sinh, đem tranh Hàn Kỳ ra “ châm lửa nến thí nghiệm” để cho công chúng một phen được thưởng thức cái lạ kỳ của bức cổ họa đó. Người chủ đồn điền quả thực là con người có lối tiêu khiển trang nhã, một lối sống văn hóa tuyệt vời thanh cao. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân dạy người ta nghệ thuật sống để tận hưởng cái ý vị tinh túy, sâu sắc của cuộc sống.

Những nhân vật chính diện trong Yêu ngôn của Nguyễn Tuân đều là những con người hiện thân cho sự phong nhã, thanh cao, “ những con người tài hoa, nhiều tình cảm, kinh lịch nhiều, sống kỹ lưỡng, sống rộng rãi không bao giờ chịu gò bó vào một khuôn khổ nào nhất định” [27, tr 54]. Người ta có thể nghĩ đến một chủ đề về văn hoá nhân cách, rải khắp những trang văn Nguyễn Tuân và ngay cả trên những trang kỳ dị Yêu ngôn. Ấm Đới (Đới Roi) có một cuộc đời đậm chất tiểu thuyết. Thuở trai trẻ phong lưu, Ấm Đới nặng lòng với chữ tình. Cậu say cô Tám như điếu đổ. Để làm đẹp lòng tình


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

nương, Ấm Đới đã lấy bộ chén ngọc liệu của nhà thờ họ chuyên dùng vào việc giỗ kỵ, “đem bán đắt bán rẻ đi sắm giường Hồng Kông” để cô Tám ngủ cho đỡ đau lưng, còn bao nhiêu thì “uống sâm- banh dần với tình”. Con người ấy cũng thật tài hoa trong làng chơi: đánh trống, chơi đàn...Cái gì cũng hay. Rồi cuộc sống đến lúc xế chiều, tiền hết, sức khỏe hết, cái tài hoa còn giữ lại được thì cũng chỉ là thừa, “tài tình như thế cũng hóa ra hão huyền”, Ấm Đới lâm vào cảnh cùng đường, “giờ sống bằng nghề chuốt roi chầu và vót gọng ô nan hoa xe đạp làm tiêm bán cho các tiệm”. Tên gọi Đới

– Roi từ đấy mà ra. Cái tên ấy cũng thực xứng với cái tài chuốt thứ roi chầu quý. Ấm Đới có đôi roi chầu mà “ đánh đến một nghìn bài Thét Nhạc rồi mà đời một cái roi vẫn cứ lành vẹn”. Đôi roi được tạo nên “ một cây bằng gỗ Khổng, một cây bằng gỗ Nguyệt Quế. Roi gỗ Khổng khắc cả một bài Hữu Sở Tư chữ lệ và riêng mấy câu “ mỹ nhân hề mỹ nhân – Bất chi vi mộ Vũ hề vi chiêu vân – Tương tư nhất dạ...” thì viết theo lối hành thư. Roi gỗ Nguyệt Quế khắc một câu Thiên Thai Thanh đào bạch thạch dĩ thanh trần”. Đó là những nét khắc tinh xảo, là cái tình với đàn, với trống với kỹ viện của Ấm Đới. Khi sa cơ, gặp người khách biết cái giá trị của đôi roi chầu, Ấm Đới cũng chỉ bán đi một cây, còn một cây giữ làm kỷ niệm cho cái đời đàn hát của mình. Ấm Đới có thể chuốt loại roi chầu gỗ găng tầm thường kém giá trị để kiếm sống, nhưng lại không chịu sống bằng lòng thương hại của người tri kỷ. “ Đới – Roi hiểu Vy thương mình lắm. Nhưng gắn cái thân mình vào đời Vy chàng thấy là buộc một quả chì vào đời người ta để rồi mà chịu ơn đời đời. Mà từ sau phút này, từ chối Vy nữa, chàng thấy sống là một sự hết cả vui”. Người nghệ sĩ cùng đường ấy đã chọn cái chết để chấm dứt cuộc sống vô vị, để nguyên vẹn một nhân cách. Cái cốt cách sang trọng ấy cũng có thể thấy ở Bá Nhỡ (Chùa Đàn), ở Bố Ô (Rượu bệnh). Qua hàng loạt nhân vật trong Yêu ngôn, có thể thấy Nguyễn Tuân quan niệm về con người khác hẳn

Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân - 11


các cây bút đương thời. Ông chia thế giới nhân vật của mình theo tiêu chí thẩm mỹ. Tất cả những nhân vật chính diện được ông mô tả như những tâm hồn nghệ sĩ tài hoa. Còn những nhân vật phản diện hiện lên như những kẻ phàm phu tục tử, thô lỗ, ngu độn, dốt nát, chỉ biết phụng sự đồng tiền. Những nhân vật có tâm hồn tài hoa nghệ sĩ được ông thể hiện rất phong phú, sinh động, đa dạng. Họ rất đẹp, nhưng luôn khiến người đọc bị ám ảnh bởi cảm giác mong manh, dễ đổ vỡ, dễ tan biến. Đó phải chăng là sự bạc mệnh muôn đời của tài hoa . Những vẻ đẹp ấy như được bao bọc bởi một màn sương mờ ảo có thể tan biến bất cứ lúc nào, và khi đó nó chỉ còn để lại chút vang bóng một thời.

3.1.2. Tái hiện những khung cảnh sống, những nét đặc thù văn hóa.

Nguyễn Tuân sinh ra tại phố Hàng Bạc, giữa nơi ba mươi sáu phố phường nghìn năm của Hà Nội. Quê ông ở ngoại thành, làng Mọc, một vùng đất quê nổi tiếng của nhiều danh nho đời cũ. Thân sinh của ông là một nhà nho tài hoa đậu khoa thi Hán học cuối cùng. Từ nhỏ ông đã được sống trong nền văn hóa dân tộc, với những cảnh sắc, phong tục, nền nếp, với cách ăn ở vui chơi từ một thời xưa đang tàn dần. Có thể nói Nguyễn Tuân là một tài tử nhà nòi, đã sống thật chín cái cái nếp sống của một thời vang bóng kia và cái hồn dân tộc, cái chất văn hóa truyền thống của dân tộc đã ngấm vào máu thịt nhà văn. Điều đó đã tạo nên một Nguyễn Tuân luôn biết trân trọng cái đẹp, cái quý của văn hóa. Khi viết về những cái xưa cũ, những cái thuộc về quê hương đất nước hay những cái có thể tưởng tượng nhớ đến quê hương đất nước, ông viết tinh vi và sâu sắc” (Vũ Ngọc Phan). Những giá trị tích cực nhất của sáng tác Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám là tinh thần dân tộc biểu hiện qua việc khai thác và gìn giữ cái đẹp truyền thống.

Cái phong vị thắm đượm trên nhiều trang viết của Nguyễn Tuân là tấm lòng gắn bó máu thịt ân tình với văn hóa dân tộc – từ cảnh vật, không


khí của quê hương đất nước cho đến nếp sống, điệu cảm quen thuộc với mỗi người Việt Nam.

Nguyễn Tuân là một nhà văn “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) và chính ông cũng tự “ cảm thấy lòng tôi vẫn là một tấm lòng An Nam hoàn toàn giữa một ngày 29 tết” [55, tr 286].

Tinh thần dân tộc ở Nguyễn Tuân là nội lực chủ yếu giúp ông hồ hởi “ lột xác”, là mãnh lực níu ông lại trên triền dốc xê dịch ăn chơi để giữ mình khỏi thành sa đọa. Thẳm sâu trong ông thắm đượm tình cảm với từng chút hương xưa của đất nước. Trong văn chương Việt Nam, Nguyễn Tuân là người đầu tiên làm sống lại thời cũ với những vẻ đẹp riêng, cũng là người luôn quan tâm đến những giá trị văn hóa cả vật chất lẫn tinh thần thuần túy dân tộc như vậy. Những trang đượm phong vị Việt Nam ấy, như giáo sư Hoàng Như Mai nhận định, đã “ bảo tồn, lưu truyền những tinh hoa của dân tộc... là phong độ, là lối sống của con người Việt Nam từ nghìn xưa mà nghìn sau có trách nhiệm phải thừa kế, tài bồi”.Ở những trang tuyệt bút của Yêu ngôn nhà văn luôn nung nấu thiết tha một nỗi niềm dân tộc. Dẫu Gốc Dó thần đã kết tinh thành nàng tiên ngọc (Xác ngọc lam) thì nàng tiên ngọc ấy vẫn cần ăn chất vỏ dó, cần được sưởi ấm bằng chất đó quê hương: “ Hồn đá này phải ăn chất vỏ dó”, thiếu dó thì dẫu có là thần tiên thì cũng sẽ chết khô. Tinh túy của cái đẹp là gì nếu không phải là đã kết tinh từ cội nguồn văn hóa dân tộc. Văn hóa là một dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại. Với Nguyễn Tuân, quá khứ là nơi hội tụ những tinh túy của tâm hồn Việt, văn hóa Việt. Trong “ Vang bóng một thời” người đọc được đón nhận bao nhiêu kiến thức văn hóa tinh tế: pha một ấm trà như thế nào để có được một chén trà ngon, để trong chén trà ấy có sự kết đọng của trời, của đất, của sương đêm, của hương hoa...và đặc biệt là cả tấm lòng, cả tâm hồn của người pha trà, để uống trà không chỉ là chuyện ăn uống mà trở thành cả một


nghệ thuật, nếu chưa phải là trà đạo thì chí ít cũng phải là nghệ thuật của ẩm thực; một nét chữ được viết ra sao để nó không chỉ là nghệ thuật thư pháp mà nét chữ ấy còn là nét người, là cái chí, cái hoài bão tung hoành của đời người; cách ra chữ để đố một câu thơ, làm sao để chữ ấy có thần nhất, tài hoa nhất...Tất cả những kiến thức ấy là hồn dân tộc, là chất Việt Nam, văn hóa Việt Nam, đến Yêu ngôn không hề vơi cạn đi mà ngược lại vẫn hết sức đậm đà và có thêm những diện mạo phong phú hơn. Ý thức dân tộc, lòng yêu nước ở Yêu ngôn thể hiện bằng tình yêu cái đẹp quá khứ hiện diện trong không gian, thời gian, cảnh vật, con người, đời sống quá khứ, từ Xác ngọc lam, Trên đỉnh non Tản, Khoa thi cuối cùng, Rượu bệnh. Trong Rượu bệnh nhà văn đã tái hiện một khung cảnh Hà Nội xa xưa mà rất đỗi quen thuộc với những cửa Ô, cảnh buôn bán tấp nập trên bến dưới thuyển, cảnh những cô gái gánh hàng rong đi bán khắp phố phường, những người hành khất nay cửa ô này mai cửa ô khác sống nhờ vào lòng thương của người đời mà cốt cách vẫn rất hào hoa, để rồi khi vắng bóng họ thì phố phường chợt trở nên hoang vu lạnh lẽo, thiếu sinh khí... Ở Khoa thi cuối cùng nhà văn giúp ta biết cách chọn một tờ giấy, một cây bút, một thỏi mực thật đúng cách cho sĩ tử và trường thi: bút lông phải là thứ bút “ Tảo Thiên Quân lông trắng”; mực viết phải là “ thỏi Hoàng Tam Xương vàng” giấy phải là “ giấy lịch Bưởi”... Nhà văn không chỉ tỏ ra am hiểu sâu sắc về giấy bút mực nơi trường ốc mà còn như đặt cả tâm hồn mình vào những tên gọi xa xưa đầy chất văn hóa ấy! Và không chỉ có vậy Khoa thi cuối cùng còn tài tình biết bao khi dựng không khí một mùa thi với sự náo nức, tất bật của sĩ tử. Năm nay nhà nước lại mở khoa thi, có những ông đồ già râu tóc đã ngả màu vì sự đùa nhả của công danh đánh lừa suốt mấy phen, chuyến này cũng cố chen ra hồ vớt lấy một chút phấn hương cuối chầu của triều đình. Trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ còn nhộn nhịp gấp mấy khoa Ất Mão trước và đây là cảnh


trường thi vô cùng quen thuộc người đọc từng gặp trong thơ Tú Xương, thơ Nguyễn Khuyến, trong “ Lều chõng” của Ngô Tất Tố. Đây là cảnh tượng trong Khoa thi cuối cùng: khi tiếng loa đồng xoáy sâu vào màn mưa lạnh, thân hình các nho sinh “chỉ là một thân cột cứng đờ mà sự thi cử đã mắc vào đấy biết bao nhiêu thứ múi, dây lòng thòng, dây lều, dây chõng, dây buộc bộ gọng, ống quyển...”

Làm nên một đất nước Việt Nam cổ kính, không thể không nhắc tới những làng nghề thủ công truyền thống. Trong Yêu ngôn thấy hiện lên khá dồi dào “bách nghệ trong nước” lừng danh thiên hạ không chỉ bởi cái đẹp mà còn bởi sự tài hoa của bàn tay con người, bởi sự “lành nghề” của một dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến. Có thể nói làm nên linh hồn những trang viết tài hoa nhất của Nguyễn Tuân là một tình cảm dân tộc thiết tha gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của đất nước mà tổ tiên ông bà đã gửi gắm lại. Nguyễn Tuân xứng đáng được gọi là nhà văn của một dân tộc có văn hóa, có thẩm mĩ.

Không chỉ ở Vang bóng một thời mà trong Yêu ngôn dù là truyện ma thì vẫn là truyện ma của một thời đã lùi vào quá vãng, cái thời còn có những anh khóa văn hay chữ tốt nhưng trời không cho đỗ đạt nên bị hồn ma báo oán; cái thời mà các lò giấy làng Hồ Khẩu chuyên chế loại giấy ngự chỉ tiến vua và đóng quyển thi cho các sĩ tử, cái thời mà sách vở thánh hiền còn in bản gỗ, bìa đánh cây, gáy sơn son và người có chữ nghiêm trang ngồi đọc bên chiếc lư trầm tỏa làn khói nhạt; cái thời mà sơn thần Tản Viên thường xuống cõi trần gọi thợ lên sửa đền trên đỉnh Ba Vì sau mỗi lần đụng độ dữ dội của hai kẻ tình địch. Mượn câu chuyện người thợ được thần núi Tản triệu lên dựng đền, Nguyễn Tuân cho độc giả thấy các sức mạnh bốn nghìn năm của dân tộc, khí thiêng sông núi vẫn còn đó, vẫn lẫm liệt uy nghi.


Đó chính là văn hóa Việt, tâm hồn Việt mà Nguyễn Tuân biết kế thừa khai thác, phát huy để làm nên cho Yêu ngôn một thế giới nghệ thuật riêng, rộng dài hơn rất nhiều chủ đề huyễn tưởng ma mị vốn là một kiểu tư duy nghệ thuật đặc thù của Yêu ngôn.

3.2. Triết lý nhân sinh, chiều sâu nhân bản:

Văn học nhận thức và phản ánh cuộc sống con người, thể hiện tư tưởng tình cảm, ước mơ và khát vọng của nhà văn. Tác phẩm văn học là nơi nhà văn kí thác, nơi khẳng định quan điểm nhân sinh, lý tưởng thẩm mĩ. Những tác phẩm văn học có chiều sâu luôn dành cho người đọc những điều mới mẻ để phát hiện, chiêm nghiệm, suy ngẫm bởi đó là “thông điệp thẩm mỹ” mà tác giả gửi đến cho bạn đọc. Với Yêu ngôn, các vấn đề văn hóa, lịch sử, số phận con người mà Nguyễn Tuân đặt ra đã đạt tới tầm triết lý nhân sinh, tới chiều sâu nhân bản. Cả tám truyện của Yêu ngôn đều thể hiện sâu sắc điều đó và điều này góp phần không nhỏ vào việc tạo nên tính chất đặc biệt “một mình một cõi” của tác phẩm.

Trên đỉnh non Tản đưa người ta vào một chốn Thiên Thai – cõi tiên kỳ ảo- mà con người được chiêm ngưỡng, được tận hưởng trong một dịp hiếm hoi. Đó là thế giới của ngọt ngào huyền diệu, của sự bất tử vĩnh hằng mà muôn đời con người vẫn mơ ước. Những người thợ mộc Chàng Thôn với đôi tay tài hoa của họ đã từng chạm tới cái đẹp vĩnh hằng ấy như trong một giấc mơ để rồi khi tỉnh lại thì giấc mơ ngọt ngào biến mất. Họ trở về cuộc đời thực với bao nuối tiếc và đối diện với những bất trắc của số phận. Giấc mơ chốn bồng lai tiên cảnh là một ảo ảnh luôn chập chờn trước mắt họ, tưởng như gần đấy mà lại khó nắm bắt, nó giống như những hòn cuội có nhân trên thế giới bí mật của non Tản, khi “ đem thả vào bát nước mưa...lấy thìa múc uống thấy say ngát vô cùng”, nhưng khi đã “hạ sơn” đã “ăn cơm hạ giới” thì người ta chỉ “còn phảng phất mà thôi”.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/10/2023