kháng nghị phúc thẩm VAHS, trước và sau mỗi đợt xét xử ở địa phương VKS cấp phúc thẩm đều có thông báo kết quả xét xử và trao đổi với VKS cấp sơ thẩm những sai sót trong kháng nghị phúc thẩm VAHS. Ngoài ra định kỳ đã tổng hợp về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS trong 6 tháng hoặc 1 năm để thông báo rút kinh nghiệm với VKS địa phương. Bên cạnh đó các Viện phúc thẩm thuộc VKSND tối cao trong kế hoạch công tác hàng năm vẫn thường xuyên tổ chức hội thảo về chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS trên toàn quốc để học tập, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau về công tác này.
2.2.3. Một số tồn tại trong công tác kháng nghị phúc thẩn trên địa bàn tỉnh Hà Giang và nguyên nhân của những tồn tại đó
2.2.3.1. Một số tồn tại
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, căn cứ vào thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, ta thấy công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS còn có một nhược điểm, có nơi VKSND các cấp chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn theo pháp luật TTHS, một số đơn vị còn chậm phát hiện vi phạm để kháng nghị, nhiều trường hợp, tuy có phát hiện vi phạm nhưng ngại va chạm, sợ ảnh hưởng đến quan hệ hai ngành, số lượng kháng nghị phúc thẩm VAHS chưa nhiều khi tỷ lệ án sơ thẩm bị cải sửa, bị hủy do có kháng cáo của bị cáo, của người bị hại chiếm tỷ lệ đáng kể. Những hạn chế nêu trên chủ yếu do một số nguyên nhân sau:
2.2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Nguyên nhân khách quan: Trước hết là hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện, một số qui định pháp luật hình sự chưa được hướng dẫn, giải thích kịp thời cụ thể, gây khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng thống nhất pháp luật giữa các ngành trong các cơ quan tư pháp.
Nguyên nhân chủ quan: xuất phát từ phía cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hình sự là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất về hạn chế, thiếu sót trong công tác kháng nghị phúc thẩm là do năng lực, trình độ của cán bộ, Kiểm sát viên còn nhiều bất cập. Có nhiều trường hợp cán bộ, Kiểm sát viên chưa nắm vững luật và các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS, BLTTHS, Bộ luật dân sự, Quy chế nghiệp vụ của ngành cũng như các văn bản có liên quan. Thiếu sắc bén, tinh thông về nghiệp vụ do đó khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà hình sự sơ thẩm, Kiểm sát viên không phát hiện ra vi phạm của Hội đồng xét xử, khi nghiên cứu án văn sơ thẩm cũng không phát hiện những vấn đề, nội dung cần xem xét để kháng nghị dẫn đến việc viết dự thảo kháng nghị thiếu căn cứ, thậm chí áp dụng sai pháp luật. Bên cạnh đó, trách nhiệm của một số Kiểm sát viên còn chưa cao. Kiểm sát viên chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, khi nghiên cứu căn cứ pháp luật còn chủ quan, qua loa, đại khái nên không phát hiện được vi phạm của bản án (quyết định) sơ thẩm hoặc phát hiện không đầy đủ, bỏ sót vi phạm, từ đó đề xuất kháng nghị chưa có căn cứ.Về phía cán bộ lãnh đạo, quản lý. Một số địa phương lãnh đạo chưa thực sự chú trọng công tác kháng nghị phúc thẩm, có không ít địa phương trong nhiều năm liền không ban hành bản kháng nghị phúc thẩm nào kể cả cấp tỉnh, cấp huyện, trong khi thông qua kháng cáo, số án hình sự phúc thẩm bị cải sửa chiếm tỷ lệ cao. Lãnh đạo VKS còn chưa thật sự sâu sát trong công tác điều hành, nên chất lượng kháng nghị phúc thẩm VAHS ở một số nơi còn thực hiện chưa tốt. Cùng với việc sử dụng quyền năng kháng nghị phúc thẩm VAHS để bảo vệ quan điểm truy tố ở một số nơi còn thiếu kiên quyết. Thực tế cho thấy có những trường hợp Toà án cấp sơ thẩm xử không đúng tội danh và mức hình phạt mà VKS đã truy tố, đề nghị nhưng VKS không kháng nghị, thông qua
Có thể bạn quan tâm!
- Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự Sẽ Góp Phần Không Nhỏ Vào Việc Thực Hiện Tốt Chức Năng Thực Hành Quyền Công Tố Và Kiểm Sát Các Hoạt Động
- Hậu Quả Của Việc Kháng Nghị Phúc Thẩm Hình Sự
- Thực Tiễn Áp Dụng Các Qui Định Pháp Luật Trong Công Tác Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự Trên Địa Bàn Tỉnh Hà Giang (Những Năm 2010 - 2014)
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 12
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 13
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
kháng cáo của người bị hại, cấp phúc thẩm đã cải sửa theo đúng tội danh mà VKS đã truy tố. Việc nghe báo cáo án, báo cáo đề xuất kháng nghị của lãnh đạo đơn vị trong một số trường hợp còn chưa kỹ, chủ yếu dựa vào báo cáo của Kiểm sát viên nên kháng nghị thiếu căn cứ thậm chí còn áp dụng sai pháp luật. Việc kháng nghị trong một số trường hợp còn mang tính chủ quan, cảm tính, thể hiện sự bức xúc do có quan điểm khác nhau giữa VKS và Toà án tại phiên toà sơ thẩm mà chưa nghiên cứu cụ thể nội dung bản án để xác định những sai sót, vi phạm làm căn cứ kháng nghị do đó kháng nghị thường chung chung, thiếu thuyết phục dẫn đến việc cấp phúc thẩm phải rút kháng nghị hoặc bị Tòa án bác kháng nghị .Về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và mối quan hệ phối hợp cấp trên cấp dưới. Việc tổ chức, đánh giá rút kinh nghiệm về công tác kháng nghị phúc thẩm tuy ở một số nơi đã thực hiện nhưng làm chưa thường xuyên, đặc biệt là những trường hợp bị rút kháng nghị. Sự phối hợp giữa các Viện phúc thẩm và các VKS địa phương cũng như giữa VKS cấp tỉnh và VKS cấp huyện trong công tác này chưa được thực sự chú ý. Mặc dù số kháng nghị bị rút hàng năm không ít nhưng các Viện phúc thẩm cũng chưa phối hợp thường xuyên để tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong toàn ngành để khắc phục trong công tác kháng nghị phúc thẩm. Về công tác kháng nghị phúc thẩm trên cấp trực tiếp, các Viện Phúc thẩm và các VKS cấp tỉnh tuy đã quan tâm song làm còn được ít do chưa tập trung được lực lượng. Về phía các Viện Phúc thẩm cũng như VKS cấp tỉnh do biên chế còn hạn chế, chủ yếu vẫn tập trung vào việc giải quyết án chưa có bộ phận chuyên trách theo dõi, thu thập, kiểm tra, nghiên cứu án văn sơ thẩm phát hiện vi phạm để kháng nghị phúc thẩm. Đối với các VKS cấp tỉnh cũng chưa có sự bố trí thoả đáng về nhân sự để theo dõi thường xuyên công tác kiểm tra bản án phát hiện vi phạm để kháng nghị trên một cấp. Theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị thì hoạt động xét xử là nội dung trọng tâm của Chiến lược cải cách tư pháp nhằm bảo đảm toà án xét xử độc lập, đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời. Đối với VKS phải hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện công tố. Tuy nhiên xét trên phương diện nào đó công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử chưa thực sự được quan tâm đúng mức, nhất là đối với công tác xét xử phúc thẩm. Thực hiện hai cấp xét xử là nguyên tắc hiến định được cụ thể hoá trong BLTTHS. Theo đó, những bản án (quyết định) sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị hợp lệ theo thủ tục phúc thẩm VAHS trong thời hạn luật định thì chưa có hiệu lực pháp luật, vụ án phải được xét xử phúc thẩm, bản án (quyết định) phúc thẩm có hiệu lực thi hành. Trong trường hợp, bản án có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Nhưng khi xem xét lại vụ án theo thủ tục đặc biệt này Toà án cấp trên trực tiếp không được ra quyết định giải quyết thẳng các yêu cầu của đương sự mà chỉ được quyền quyết định huỷ hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm để điều tra lại hoặc để toà án cấp dưới xét xử lại.
Có thể thấy, kháng nghị phúc thẩm VAHS là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước giao cho VKS nhằm hướng tới mọi VAHS được xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng. Do đó, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm cũng cần phải đặt đúng vai trò vị trí trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành. Tuy đã có chuyển biến nhất định nhưng chúng ta chưa thật sự có đột phá mạnh mẽ trong công tác này. Sau khi không thực hiện chuyên khâu mà chuyển sang thông khâu công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử trong toàn ngành có sự phân tán và không có đầu
mối thống nhất quản lý. Đối với công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm của VKS cấp tỉnh và kiểm sát xét xử của ba Viện phúc thẩm hiện nay không có đầu mối thống nhất quản lý. Do đó có thể nói công tác kiểm sát xét xử án hình sự nói chung và công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm nói riêng và đặc biệt là công tác kháng nghị phúc thẩm hầu như không có đầu mối nào trong ngành chịu trách nhiệm quản lý hướng dẫn chỉ đạo thống nhất về nghiệp vụ.
Như vậy, sự đánh giá về số lượng và chất lượng của công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS của cấp huyện cũng như cấp tỉnh hiện nay không có ai phải chịu trách nhiệm kiểm tra, theo dõi và đánh giá. Điều đó ảnh hưởng không ít tới chất lượng công tác kiểm sát xét xử nói chung và công tác kháng nghị phúc thẩm nói riêng. Xuất phát từ tinh thần trách nhiệm của kiểm sát viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, đó là có một phần do tâm lý “dĩ hoà vi quý”, “cả nể” nên không kháng nghị, ngại kháng nghị. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng công tác kháng nghị bị ảnh hưởng không nhỏ.
Trên cơ sở lý luận chung, tác giả trình bày các qui định trong BLTTHS năm 2003 về kháng nghị phúc thẩm VAHS và thực tiễn áp dụng các qui định này trên địa bàn tỉnh Hà Giang (những năm 2010 -2014) trong chương sau của luận văn.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự
Trên cơ sở một số vấn đề chung về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS đã được nghiên cứu tại chương 1 và thực trạng áp dụng các qui định về kháng nghị phúc thẩm VAHS được nghiên cứu tại chương 2 trong luận văn này, xuất phát từ BLTTHS năm 2015 cũng như thực tiễn công tác kiểm sát trong hơn hai mươi năm qua có thể nhận thấy, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các qui định của BLTTHS là cần thiết trên các bình diện sau đây:
3.1.1. Về mặt lập pháp
Hiện nay trong BLTTHS năm 2015 cho thấy trong chương XXII xét xử phúc thẩm qui định từ Điều 330 đến Điều 362, trong đó chỉ có qui định quyền kháng nghị của VKS (Điều 336); thời hạn kháng nghị (Điều 337), hậu quả của việc kháng nghị (Điều 339), thay đổi, bổ sung rút kháng nghị (Điều 342) nhưng vẫn còn thiếu hoàn toàn các qui định về tính chất của kháng nghị phúc thẩm VAHS và các căn cứ để kháng nghị phúc thẩm VAHS.
3.1.2. Về mặt lý luận
Như đã nêu và phân tích tại phần căn cứ kháng nghị phúc thẩm VAHS ở chương 1 của luận văn, việc đảm bảo nhận thức về mặt lý luận trong tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật tác giả đưa ra một số định hướng nhằm hoàn thiện BLTTHS năm 2015 về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS, trong đó ghi nhận một điều về tính chất kháng nghị phúc thẩm VAHS và một điều qui định 05 (năm) căn cứ kháng nghị phúc thẩm VAHS để nâng cao chất lượng
công tác này trong ngành kiểm sát nhân dân nhằm làm phong phú thêm kho tàng khoa học pháp luật TTHS nói chung và BLTTHS sửa đổi nói riêng.
3.1.3. Về mặt thực tiễn
Thực tiễn công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS những năm qua cho thấy, công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS đã áp dụng 04 (bốn) căn cứ để kháng nghị phúc thẩm VAHS, nhưng chỉ được qui định trong qui chế nghiệp vụ của riêng ngành kiểm sát nhân dân, dẫn đến qui định các căn cứ cụ thể về kháng nghị phúc thẩm VAHS sự là vô cùng cần thiết nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ làm công tác giải quyết án hình sự trong lĩnh vực kháng nghị phúc thẩm VAHS và áp dụng đúng đắn các qui định của pháp luật. Chính vì vậy việc pháp điển hóa nhằm đảm bảo nhận thức chung và áp dụng chung cho tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật.
3.2. Định hướng hoàn thiện các quy phạm pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành có liên quan đến công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự
Năm 2013 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi thay thế Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức VKSND mới sửa đổi năm 2014 có hiệu lực tháng 6/2015 thay thế Luật tổ chức VKSND năm 2002 cơ bản đã dựa trên tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị “Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án”. Nghị quyết cũng chỉ rõ “hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
Như đã nêu và phân tích tại phần căn cứ kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự ở chương 1 của luận văn cho thấy BLTTHS năm 2015 vẫn không đưa ra các điều luật quy định các căn cứ kháng nghị phúc thẩm VAHS, điều đó vẫn sẽ làm cho công tác kháng nghị phúc thẩm của VKS gặp nhiều khó khăn, nhiều vụ án xử đi xử lại nhiều lần làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng và nhiều hệ lụy khác. Do vậy, trong BLTTHS năm 2015 cần thiết phải có một số điều luật qui định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm VAHS cho hoàn thiện. Tác giả đưa ra mô hình lý luận của những kiến giải lập pháp cụ thể, nhằm hoàn thiện hai điều luật về “tính chất của kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự và các căn cứ kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự”, trong đó ghi nhận 05 (năm) căn cứ kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự thành điều luật cụ thể để nâng cao chất lượng công tác này trong ngành kiểm sát nhân dân như sau:
Điều…
“Tính chất của kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự”
Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự là việc Viện kiểm sát cùng cấp (hoắc cấp trên trực tiếp) ban hành văn bản thể hiện quan điểm phản ứng của Viện kiểm sát đối với bản án (quyết định) của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) khi có một trong năm căn cứ được ghi nhận tại khoản 2 điều
… Bộ luật này.
Điều… Căn cứ kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự
1. Khi có một trong các căn cứ nêu tại khoản 2 điều này thì Viện kiểm sát cùng cấp (hoặc cấp trên trực tiếp) tiến hành kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự.
2. Các căn cứ kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự bao gồm:
a) Bản án (quyết định) của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) phiến diện, không phản ánh một cách khách quan, đầy đủ các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
b) Các kết luận của bản án (quyết định) của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) không phù hợp với các tình tiết thực tế của vụ án hình sự.
c) có sự vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự hoặc (và pháp luật hình sự).