Hình 4.6. Sơ đồ phân bố các vùng giàu nước trong tầng chứa nước Pleistocen liên quan đến của hệ thống đứt gãy kiến tạo hiện đại.
- 117 -
4.4. Vai trò của các đứt gãy kiến tạo hiện đại đến mực NDĐ khu vực nghiên cứu
Trên cơ sở đo đạc và tổng hợp kết quả quan trắc mực nước dưới đất từ năm 2010 đến 2012, đo kiểm tra các năm 2013-2014, NCS đã xây dựng sơ đồ đẳng cao mực nước tại vùng nghiên cứu.
Sơ đồ đẳng cốt cao tầng chứa nước Holocen cho thấy mực nước ở phía Bắc sông Thu Bồn khá thấp từ 1 đến 2m, khu vực có mực nước cao phân bố rãi rác ở vùng núi rìa phía Tây khu vực nghiên cứu. Phía Nam sông Thu Bồn (huyện Thăng Bình đến phía Bắc Tam Kỳ), mực nước ở đây chịu sự khống chế của các đứt gãy F1-10, F1-11, F1-12 theo phương Tây Bắc – Đông Nam. Khu vực giữa đứt gãy F1-11 và F1-12 mực nước trung bình cao 5-8m; giữa đứt gãy F1-10 và F1-11 mực nước trung bình cao 3- 5m thể hiện rõ ảnh hưởng sụt bậc của hệ thống đứt gãy chạy song song với bờ biển (Hình 4.7). Hướng di chuyển của nước dưới đất cũng cơ bản trùng với hướng dịch chuyển của cánh các đứt gãy thuận.
Ngoài ra, tại vị trí vòm nâng 02, mực nước ở vùng trung tâm vòm cao hơn xung quanh nên hướng di chuyển của nước dưới đất kiểu tỏa tia. Tại vị trí vòm hạ 04, 05 ở phía Nam huyện Núi Thành, nước dưới đất có hướng di chuyển kiểu hội tụ về vùng trũng của vòm hạ.
Tầng chứa nước Pleistocen có mực nước cao tập trung chủ yếu ở vùng đồi núi phía Tây khu vực nghiên cứu (Đại Lộc, Quế Sơn, Phú Ninh), chịu sự khống chế của các đứt gãy F1-07, F2-09. Vùng đồng bằng Điện Bàn, Hội An có mực nước thấp 1- 2m. Vùng đồng bằng Thăng Bình đến phía Bắc huyện Núi Thành mực nước khá cao, trung bình 7m. Như vậy, vùng phía Nam sông Thu Bồn vẫn có mực nước cao hơn phía Bắc do sự dịch chuyển của đứt gãy thuận F2-01, F2-02 định hướng Đông Bắc – Tây Nam (Hình 4.8). Ngoài ra, phần lớn TCN Pleistocen không có mối quan hệ thủy lực chặt chẽ với mực nước biển do có lớp sét ngăn nước giữa tầng này với TCN Holocen bên trên. Tại khu vực chịu ảnh hưởng của đứt gãy F2-01, F2-02, F1-06 đường đẳng cốt cao mực nước có xu hướng chạy chạy dọc theo đứt gãy, có hướng gần vuông góc với đường bờ biển.
Các đứt gãy F2-12 (trung tâm huyện Thăng Bình); đứt gãy F1-14, F2-18, F4-03 (phía Nam thành phố Tam Kỳ) cũng có vai trò khống chế mực nước dưới đất của tầng chứa nước Pleistocen.
Hình 4.7. Bản đồ đẳng cao mực nước dưới đất của tầng chứa nước Holocen tại đồng bằng Quảng Nam
Hình 4.8. Bản đồ đẳng cao mực nước dưới đất của tầng chứa nước Pleistocen tại đồng bằng Quảng Nam
4.5. Vai trò của đặc điểm độ hạt trầm tích Đệ tứ đến tính thấm nước
Trên cơ sở tổng hợp đặc điểm thành phần hạt của khoảng 1000 mẫu cơ lý đất đá từ các lỗ khoan Địa chất công trình, NCS đã thu thập và phân tích thêm 118 mẫu cơ lý đất đá theo dự án “Đánh giá tổng hợp điều kiện Địa chất Công trình vùng đồng bằng ven biển Quảng Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu”. Sau khi phân loại và xử lý thống kê, NCS sử dụng phần mềm GRADISTAT (phiên bản 8.0 của Simon J Blott) để chuyển đổi từ thang phân loại độ hạt của Việt Nam sang thang phân loại quốc tế. Kết quả đã được tổng hợp trên bảng Thành phần độ hạt các loại trầm tích Đệ tứ có nguồn gốc khác nhau tại đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam (Phụ lục 3). Các số liệu đó sử dụng để tính toán, xác định hệ số thấm phù hợp cho mỗi loại trầm tích Đệ tứ tại khu vực nghiên cứu. Đây là thông số đầu vào quan trọng cho mô hình tính toán ĐCTV ở phần sau.
Hệ số thấm (m/ngày)
100,22
88,13
88,13
92,45
80,35
82,94
63,94
50,11
35,42
29,38
31,00
23,33
8,21
4,92
15,55
9,50
7,78
3,110,05
8,04
3,11
0,150,12 0,01
3,11
0,19
8,21
7,78
1
2
3
4
5
6
7
8 9 10 11 12 13 14 15 1617 18 19 20 21 22 23
Ký hiệu loại trầm tích (Bảng 4.3)
84,67
Để tính toán xác định giá trị hệ số thấm cho các loại trầm tích từ các công thức tính toán kinh nghiệm (Bảng 4.3), NCS đã sử dụng biểu đồ thống kê để tìm ra các giá trị hệ số thấm của mỗi loại trầm tích Đệ tứ như Hình 4.9, 4.10.
Hình 3.1a. Biểu đồ xử lý thống kê giá trị hệ số thấm của trầm tích Đệ tứ tuổi
7,78
19,87
20,74
12,10
17,28
12,10
25,06
6,22
31,00
18,14
15,55
0,37
10,37
7,17
9,50
3,11
7,78
Hình 4.9. Biểu đồ xử lý thống kê giá trị hệ số thấm (giá trị trung bình thống kê ở Bảng 4.3) của trầm tích Đệ tứ tuổi Holocen tại đồng bằng Quảng Nam.
Hệ số thấm (theo công thức kinh nghiệm Bảng 4.3) của các trầm tích cát hạt thô đến rất thô biến đổi trong khoảng 38-88m/ngày. Cát hạt trung, cát hạt trung lẫn sạn sỏi nhỏ có hệ số thấm trong khoảng 10-30m/ngày; trầm tích sạn sỏi nhỏ lẫn cát bột biến đổi trong khoảng 2,7-10m/ngày; trầm tích thành phần bột lẫn cát có hệ số thấm
107058’23”
108012’22”
108026’23”
108040’22”
Các vùng có hệ số thấm khác nhau
1,8-2,6m/ngày 2,6-3,2m/ngày 3,3-4,0m/ngày 4,1-6,5m/ngày 6,6-7,5m/ngày 7,6-12m/ngày
107058’23”
108012’22”
108026’23”
108040’22”
Hệ số thấm (m/ngày)
77,76
70,85
63,94
42,34
44,06
19,87
17,28
8,21
15,55
8,21
8,64
8,04
10,37
3,11
0,05 3,11
24
3,11
25 26
0,11
27
28 29
0,46
30
0,05
2,59
31 32 33 34 35 36
Ký hiệu loại trầm tích (Bảng 4.3)
15048’25”
16002’01”
10,37
9,50
8,21
9,50
15048’25”
16002’01”
Hình 4.10. Biểu đồ xử lý thống kê giá trị hệ số thấm (giá trị trung bình thống kê ở bảng 4.3) của trầm tích Pleistocen.
15021’17”
15034’53”
15021’17”
15034’53”
Hình 4.11. Sơ đồ phân vùng hệ số thấm của tầng chứa nước Holocen.
Bảng 4.3. Hệ số thấm các loại trầm tích Đệ tứ từ kết quả thống kê đối chiếu với kết quả bơm hút nước thí nghiệm.
TRẦM TÍCH | KÝ HIỆU LOẠI TRẦM TÍCH | ĐẶC ĐIỂM THẠCH HỌC | Hệ số thấm K (m/ngày) | ||||
Giá trị lớn nhất | Giá trị trung bình | Giá trị nhỏ nhất | Giá trị thí nghiệm | ||||
HOLOCEN - qh | mQ23 | 1 | Cát hạt thô | 88,13 | 63,94 | 63,94 | |
amQ23 | 2 | Cát rất thô lẫn sạn rất nhỏ | 84,67 | 37,59 | 23,33 | ||
3 | Sạn sỏi rất nhỏ lẫn cát, bột thô | 8,21 | 6,22 | 4,92 | |||
aQ23 | 4 | Cát rất thô lẫn sạn rất nhỏ | 100,22 | 47,52 | 35,42 | ||
5 | Cát hạt trung lẫn sạn rất nhỏ | 19,87 | 8,77 | 7,78 | |||
ambQ23ch | 6 | Cát hạt trung lẫn sạn rất nhỏ | 20,74 | 8,77 | 7,78 | ||
mQ22 | 7 | Cát hạt mịn | 12,10 | 12,10 | 3,11 | ||
mlQ22kl | 8 | Sạn rất nhỏ lẫn cát, bột | 17,28 | 3,11 | 0,05 | ||
amQ22np | 9 | Cát thô lẫn sạn rất nhỏ | 15,55 | 13,82 | 12,10 | 13,28- 82,29 | |
10 | Sạn rất nhỏ lẫn cát bột rất thô | 9,50 | 8,21 | 3,11 | |||
aQ22 | 11 | Cát thô lẫn sạn | 80,35 | 38,88 | 25,06 | ||
12 | Cát hạt trung lẫn sạn | 31,00 | 9,50 | 6,22 | |||
13 | Cát hạt trung lẫn ít sạn rất nhỏ | 18,14 | 5,40 | 0,15 | |||
ambQ22 | 14 | Sạn rất nhỏ lẫn cát bột thô | 15,55 | 4,94 | 0,12 | ||
mbQ22 | 15 | Bột rất thô lẫn cát rất mịn | 0,37 | 0,19 | 0,01 | ||
mvQ22 | 16 | Cát thô lẫn ít sạn | 88,13 | 88,13 | 50,11 | ||
17 | Cát hạt trung | 10,37 | 8,04 | 8,04 | |||
mQ21no | 18 | Cát thô lẫn ít sạn rất nhỏ | 29,38 | 12,10 | 7,17 | 2,54- 17,31 | |
19 | Cát hạt trung lẫn ít sạn | 82,94 | 27,65 | 3,11 | |||
ambQ21 | 20 | Sạn rất nhỏ lẫn cát bột | 9,50 | 5,66 | 0,19 | ||
amQ21 | 21 | Sạn rất nhỏ lẫn cát bột thô | 8,21 | 5,57 | 3,11 | 3,46 | |
aQ21 | 22 | Cát rất thô lẫn ít sạn | 92,45 | 40,61 | 7,78 | ||
23 | Cát hạt trung lẫn ít sạn | 31,00 | 19,87 | 7,78 | |||
PLEISTOCEN - qp | mQ13(2)đn | 24 | Cát thô lẫn ít sạn | 42,34 | 24,19 | 8,64 | 1,73- 30,37 |
25 | Cát hạt trung lẫn ít sạn | 10,37 | 8,04 | 3,11 | |||
mlQ13(2)tb | 26 | Sạn rất nhỏ lẫn cát bột | 8,21 | 5,96 | 3,11 | 0,26- 14,46 | |
amQ13(2) | 27 | Sạn rất nhỏ lẫn cát bột | 9,5 | 2,68 | 0,11 | 2,79- 13,83 | |
aQ13(2)đt | 28 | Cát rất thô lẫn sạn | 77,76 | 45,80 | 15,55 | 2,59- 3,46 | |
29 | Cát hạt trung lẫn sạn | 19,87 | 10,29 | 8,04 | |||
30 | Sạn rất nhỏ lẫn cát bột | 8,21 | 3,11 | 0,46 | |||
mlQ13(1)ht | 31 | Sạn rất nhỏ lẫn cát bột | 8,21 | 3,50 | 0,05 | ||
amQ13(1) | 32 | Sạn rất nhỏ lẫn cát bột | 9,5 | 5,84 | 3,11 | 2,03- 62,94 | |
amQ12mb | 33 | Cát hạt trung lẫn sạn | 70,85 | 29,38 | 10,37 | 11,20 | |
34 | Sạn rất nhỏ lẫn cát bột | 17,28 | 3,11 | 0,05 | |||
aQ11đp | 35 | Sạn rất nhỏ lẫn cát | 63,94 | 10,16 | 2,59 | ||
36 | Cát thô lẫn sạn | 44,06 | 44,06 | 44,06 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tính Toán Tốc Độ Dịch Chuyển (Hạ Thấp) Kiến Tạo Đệ Tứ – Kiến Tạo Hiện Đại Tại Khu Vực Đồng Bằng Ven Biển Tỉnh Quảng Nam
- Tổng Quát Về Các Tầng Chứa Nước Trầm Tích Đệ Tứ Tại Đồng Bằng Ven Biển Tỉnh Quảng Nam
- Vai Trò Của Các Đứt Gãy Kiến Tạo Hiện Đại Đến Khả Năng Chứa Nước Của Trầm
- Ảnh Hưởng Của Trầm Tích Đệ Tứ Và Các Yếu Tố Tự Nhiên Khác Đến Thành Phần Hóa Học Của Nước Dưới Đất
- Nguồn Gốc Và Xu Thế Biến Đổi Cơ Bản Của Ndđ Trong Tầng Chứa Nước Pleistocen, Trầm Tích Mq 1 3(2) Đn Hệ Tầng Đà Nẵng
- Đặc Điểm Thủy Địa Hóa Nước Dưới Đất Khu Vực Đồng Bằng Ven Biển Tỉnh Quảng Nam Và Mối Quan Hệ Với Trầm Tích Đệ Tứ
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
1
3
2
rất nhỏ là 0,19m/ngày (mbQ22). Trầm tích nguồn gốc biển gió hạt thô (mvQ22), biển hiện đại hạt thô (mQ23) có hệ số thấm lớn nhất, biến đổi trong khoảng từ 63,9 đến 88,1m/ngày; khi độ hạt nhỏ hơn (hạt trung, hạt mịn) thì chỉ biến đổi trong khoảng 8- 12,1m/ngày. Trầm tích nguồn gốc sông là cát hạt thô, rất thô (aQ11đp, aQ13(2)đt, aQ2 , aQ22, aQ2 ) có hệ số thấm khá ổn định, biến đổi trong khoảng 38,9-47,5m/ngày; khi thành phần là cát hạt trung hoặc sạn sỏi nhỏ lẫn cát bột thì hệ số thấm giảm xuống chỉ còn trong khoảng 3,1-10,3m/ngày. Trầm tích biển hệ tầng Nam Ô và hệ tầng Đà Nẵng có hệ số thấm tương đương nhau, biến đổi trong khoảng 12,1-27,7m/ngày (mQ21no) hoặc 8-24,2m/ngày (mQ13(2)đn). Trầm tích nguồn gốc sông biển thành phần cát hạt thô, hạt trung (amQ12mb, amQ22np, amQ23) hệ số thấm biến đổi từ 13,8 đến 37,6m/ngày; thành phần sạn sỏi nhỏ lẫn cát bộ (amQ13(1), amQ13(2), amQ21) hệ số thấm biến đổi từ 2,7 đến 8,2m/ngày. Các trầm tích nguồn gốc biển vũng vịnh (mlQ13(1)ht, mlQ13(2)tb, mlQ22kl), sông - biển - đầm lầy (ambQ21, ambQ 2) có hệ số thấm khá nhỏ
biến đổi từ 3,5 đến 5,9m/ngày.
107058’23”
108012’22”
108026’23”
108040’22”
Các vùng có hệ số thấm khác nhau
2,1-2,4m/ngày 2,5-3,5m/ngày 3,6-5,9m/ngày 6,0-8,4m/ngày 8,5-10m/ngày 11-15m/ngày 35-40m/ngày
107058’23”
108012’22”
108026’23”
108040’22”
15048’25”
16002’01”
15048’25”
16002’01”
Kết hợp với số liệu độ dày của các tập trầm tích, NCS đã tính toán và thành lập được sơ đồ phân vùng hệ số thấm cho TCN Holocen như Hình 4.11 và TCN Pleistocen như Hình 4.12 (xem công thức mục 1.3.3.1).
15021’17”
15034’53”
15021’17”
15034’53”
Hình 4.12. Sơ đồ phân vùng hệ số thấm của tầng chứa nước Pleistocen.