Một Số Dấu Hiệu Nhận Biết Sớm Tự Kỷ

khăn để họ tự phục hồi chức năng hoạt động trong xã hội và để tạo ra các điều kiện thuận lợi cho họ đạt được những mục đích cá nhân”.[14,tr.8]

Tự kỷ

Trong gần một thế kỷ qua, trên thế giới đã có rất nhiều các nghiên cứu và kết luận khác nhau về TK. Những khái niệm cũng như các phân loại của loại rối nhiễu này rất đa dạng và đã trải qua nhiều thay đổi theo thời gian. Sau đây xin được trích dẫn một số quan niệm cổ điển và hiện đại của các nhà khoa học về TK.

Quan niệm của Bleuler năm 1911: “TK là khái niệm dùng để chỉ những người bệnh tâm thần phân liệt không còn liên hệ với thế giới bên ngoài nữa mà sống với thế giới của riêng mình, bệnh nhân chia cắt với thực tế bên ngoài và lui về thế giới bên trong, khép mình trong ham muốn riêng và tự mãn”.[22]

Quan niệm của Kanner: “TK là sự rút lui cực đoan của một số trẻ em lúc mới bắt đầu cuộc sống, triệu chứng đặc biệt của bệnh là một sự hiếm thấy, là sự rối loạn từ cội rễ, là sự không có khả năng của những trẻ này trong công việc thiết lập các mối quan hệ bình thường với các tình huống từ lúc chúng bắt đầu cuộc sống”.[22]

Theo bộ bách khoa của Collie: “TK là một rối loạn rất nặng về sự phát triển tâm lý của trẻ em đặc tính chủ yếu là không đáp ứng với người khác và thiếu sự giao tiếp”[27]

Quan niệm của Freud: “TK là sự đầu tư vào đối tượng quay trở lại trong cái tôi, có nghĩa là đã trở thành tự yêu, là sự ẩn náu của trẻ em trong thế giới bên trong huyễn tưởng và ảo ảnh để hỏi rằng cái tự trị ảo tưởng chỉ có thể được một thời gian, đối với chủ thể với điều kiện phải thêm vào đó sự chăm sóc của người mẹ”.[12]

Quan niệm của M. Mahler và Franes Tustin: “TK là biểu hiện cho sự không bình thường xuất phát từ mối quan hệ mẹ con, đó là một cách thức phòng vệ như một cái vỏ bọc gắn với xu hướng bẩm sinh tự bảo vệ khỏi những kinh nghiệm lo hãi ghê sợ từ sự chia cắt với cơ thể mẹ”.[12]

Quan niệm của trường phái nhận thức: “TK là những sự thiếu hụt liên quan tới các quá trình tượng trưng hóa, nhất là về trí nhớ và những suy yếu trong sự bộc lộ hoặc trong sự thấu hiểu tình cảm”[12]

Theo tác giả Lê Khanh thì “Chứng tự tỏa (hay TK), gọi chung là hiện tượng tự tỏa theo nguyên nghĩa là Tự mình phong tỏa các khả năng quan hệ của mình với bên ngoài. Việt Nam còn gọi là TK hay Tự bế… Tình trạng này có thể xảy ra cho bất kỳ một đứa trẻ nào, không lệ thuộc vào dân tộc, xã hội hay trình độ phát triển của cha mẹ.”[8]

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

Năm 1999 tại hội nghị toàn quốc về TK ở mĩ các chuyên gia Mỹ đã cho rằng nên xếp TK vào nhóm vác rối loạn lan tỏa và đã đưa ra định nghĩa về TK như sau: TK là một dạng khuyết tật trong nhóm rối loạn phát triển lan tỏa ảnh hưởng đến nhiều mặt của sự phát triển nhưng ảnh hưởng nhiều nhất đến khả năng giao tiếp và quan hệ xã hội[26].

Theo Autism society of America ( 2005), TK là một rối loạn phát triển có ảnh hưởng trầm trọng trong suốt cuộc đời của một cá nhân. TK thường xuất hiện trong ba năm đầu đời.

Công tác xã hội trong can thiệp sớm với trẻ tự kỉ Nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Đặc biệt, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam - 3

Năm 2009 trong cuốn “ hỏi đáp về bệnh TK” bác sĩ Quách Thúy Minh cho rằng, “ TK là một rối loạn lan tỏa do bất thường của bộ nào xuất hiện sớm trong những năm tháng đầu đời của trẻ em với biểu hiện đặc trưng ở các lĩnh vưc: kém tương tác xã hội, bất thường về ngôn ngữ, giao tiếp và hành vi”

Tuy nhiên trong khuôn khổ của nghiên cứu chúng tôi xin được sử dụng khái niệm TK của liên hợp quốc .Theo liên hợp quốc ( năm 2008) TK là một loại khuyết tật phát triển suốt đời được thể hiện trong vòng 3 năm đầu đời. TK là do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ. TK có thể xảy ra ở bất kỳ cá nhân nào không phân biệt giới tính, chủng tộc, giàu ngh o và địa vị xã hội. TK được biểu hiện ra ngoài bằng những khiếm khuyết về tương tác xã hội, khó khăn về giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, và hành vi, sở thích và hoạt động mang tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại.[32, tr.39].

Can thiệp sớm

Theo từ điển tiếng việt thông dụng của Nguyễn Như Ý chủ biên can thiệp được hiểu là “dự” vào công việc của người khác tác động theo một hướng nào đó [20].

Theo oxford advanced leraner’s dictionory of cutrrent English cho rằng can thiệp là tham gia vào tình huống theo trật tự nhất định nhằm cải thiện hoặc giúp đỡ.

TTK thường gặp rất nhiều khó khăn hoặc còn phụ thuộc vào người lớn do vậy việc CTS cho trẻ cần phải tác động vào cả người chăm sóc trẻ như vậy khái

niệm can thiệp có thể được hiểu rộng hơn như sau: “ Can thiệp vào sự phát triển của trẻ và gia đình trẻ thông qua các biện pháp khác nhau nhằm giúp trẻ phát triển tối đa năng lực của mình và có thể và có thể hòa nhập với xã hội.”[15].

Khái niệm sớm trong từ điển tiếng việt thông dụng là xảy ra trước thời điểm quy định hoặc so với mọi khi[20]. Theo oxford advanced leraner’s dictionory of cutrrent English thì khái niệm “ sớm” được hiểu là “ đến hoặc làm cái gì đó trước bình thường, trước dự tính hoặc thời gian trong kế hoạch.” Nếu chọn thời điểm bắt đầu cho trẻ học tập làm mốc thì khái niệm sớm cần được hiểu là “xảy ra trước tuổi trẻ bắt đầu hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập” giới hạn sau đó đã rò vì hoạt động học tập tại trường của trẻ được xác định phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý và đó là khi trẻ đạt 6 tuổi. nhưng trẻ có số tuổi lớn hơn 6 vẫn cần được can thiệp để phát triển các kĩ năng đặc thù giúp trẻ tham gia giáo dục tốt hơn. Tuy nhiên khi đó trẻ đã lớn hơn độ tuổi trong chương trình CTS [15].

Theo Fallen và Umansky ( 1985) thì CTS là “quá trình tác động vào cuộc sống của trẻ nhỏ bị khuyết tật và giáo dục nhằm thay đổi xu hướng và hệ quả của khuyết tật hay chậm phát triển”. Việc CTS phải được tiến hành trên từng cá nhân nhưng phải kết hợp điểu chỉnh hoặc phối hợp giữa các dịch vụ, chiến lược, kĩ thuật hoặc những đồ dùng cần thiết giúp trẻ phát huy tiềm năng.

Trong khuôn khổ của nghiên cứu chúng tôi xin phép được sử dụng khái niệm CTS sau đây: “CTS là một biện pháp giáo dục sớm cho trẻ có khó khăn trong phát triển trí tuệ trước 5 tuổi[32]”. CTS trong 5 năm đầu nhằm kích thích và huy động tối đa sự phát triển của trẻ làm giảm nhẹ hay khắc phục những khuyết tật của trẻ. Đây chính là sự chuẩn bị quan trọng cho việc học và tiếp tục học lên lớp mẫu giáo sau này của trẻ, đồng thời CTS cũng chuẩn bị tiền đề để trẻ có thể hội nhập tại các trường phổ thông.[32]

Công tác xã hội trong can thiệp sớm với trẻ tự kỉ.

CTXH trong CTS với trẻ tự kỉ là tìm hiểu về thực trạng can thiệp sớm, các phương pháp can thiệp, hiệu quả can thiệp sớm và sự tham gia của các lực lượng trong quá trình can thiệp sớm cho TTK. Từ đó NVCTXH xây dựng các biện pháp để tăng cường sự tham gia của các lực lượng trong quá trình can thiệp, tăng cường các biện pháp can thiệp phù hợp với vai trò của từng bộ phận can thiệp sớm cho TTK.

1.2. Các lý thuyết nghiên cứu

1.2.1. Thuyết hệ thống

Thuyết hệ thống được phát trển vào những năm 30 và 40 của thế kỷ XX do nhà sinh học Ludving Von Bertanffy khởi xướng. Thuyết hệ thống bao quát mọi lĩnh vực ( tin học, sinh học, kinh tế, xã hội học) một hệ thống được định nghĩa là “một tổng thể phức hợp gồm nhiều yếu tố nào đó đều tác động lên những yếu tố khác và cũng tác động lên toàn bộ hệ thống”. Một hệ thống có thể gồm nhiều tiểu hệ thống, đồng thời là một bộ phận của một đại hệ thống.Có những hệ thống khép kín, không trao đổi với những hệ thống xung quanh [10,tr.45]. Có nhiều các khái niệm về hệ thống. theo từ điển tiếng Việt: “Hệ thống là tập hợp nhiều yếu tố đối với cùng loại hoặc cùng chức năng có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ làm thành một thể thống nhất”(Từ điển tiếng Việt). Theo định nghĩa của “Lý thuyết công tác xã hội hiện đại”: “Hệ thống là một tập hợp các thành tố được sắp xếp có trật tự và liên hệ với nhau để hoạt đông thống nhất.”

Một hệ thống có thể gồm nhiều tiểu hệ thống,đồng thời là một bộ phận của hệ thống lớn hơn. Tiểu hệ thống là hệ thống thứ cấp hoặc hệ thống hỗ trợ. Các tiểu hệ thống được phân biệt với nhau bởi các ranh giới-là một bộ phận của hệ thống lớn (và mỗi cá nhân được coi như là một hệ thống). Hệ thống là một tổng thể, duy trì sự tồn tại bằng sự tương tác giữa các tổ phần tạo nên nó. Các yếu tố của một hệ thống thường tham gia vào nhiều hệ thống khác. Điều này đòi hỏi mỗi một thành tố phải thực hiện tốt vai trò của mỗi hệ thống mà nó đóng vai. [10,tr.45].

Đối với thuyết hệ thống việc ứng dụng lý thuyết này sẽ làm tăng sự cố kết trong những tiểu hệ thống trong một hệ thống lớn hơn như đối với bản thân trẻ và CM hoặc người trực tiếp chăm sóc trẻ để CM hoặc người chăm sóc trẻ có thể có những kĩ năng để can thiệp với trẻ tại gia đình. Ngoài việc can thiệp với trẻ nhân viên xã hội còn có thể ứng dụng để làm tăng sự cố kết của trẻ đối với tất cả các thành viên khác trong gia đình để các thành viên khác đều có thể chơi với trẻ thậm chí là chơi nhưng không phải là chơi vô nghĩa mà là chơi có mục đích nhằm giúp trẻ có thể tương tác được với tất cả các thành viên khác trong gia đình mà không chỉ là người chăm sóc hay CM trẻ.

1.2.2. Thuyết sinh thái

Lý thuyết này chỉ ra rằng con người nằm trong nhiều hệ thống sinh thái khác nhau và mỗi hệ thống này có mối quan hệ khác nhau có nghĩa rằng mỗi hệ thống sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với nhau sẽ có sự phát triển khác so với những hệ thống sinh thái có những mối quan hệ lỏng lẻo.[10, tr.52]

Môi trường sinh thái của cá nhân khi cá nhân đó đang cố gắng để thích nghi với môi trường xung quanh; hệ thống khi nhìn vào mối tương quan của những bộ phận khác nhau. Ta phối hợp hai chữ nầy thành hệ thống sinh thái (Ecology systems). Cá nhân gắn chặt với gia đình, gia đình với cộng đồng, có những cá nhân rất mạnh có thể lay chuyển cả một hệ thống lớn. Hành vi con người rất phức tạp, không có một yếu tố nào duy nhất giải thích về hành vi con người. Chúng ta phải cố gắng kết hợp các lý thuyết về cá nhân, gia đình, nhóm, xã hội và lý thuyết về thế giới để hiểu về con người theo hệ thống sinh thái. Gia đình có ranh giới, chúng ta cũng có ranh giới, bất cứ hệ thống nào cũng có ranh giới, chúng ta nghĩ đến sự tương tác trong hệ thống để hiểu con người. Để hiểu một người bạn nào đó, chúng ta phải hiểu thế giới rộng hơn, phải hiểu gia đình người đó, nhóm bạn cũng làm việc, cộng đồng mà bạn đó đang tương tác. Hệ thống sinh thái của mỗi cá nhân đều độc đáo.[10, tr.53]

Với thuyết sinh thái việc ứng dụng lý thuyết này nhằm vào các hệ thống lớn hơn như hệ thống trường học, hệ thống nơi trung tâm can thiệp và hệ thống nơi cộng đồng sinh sống để giúp những hệ thống này có tương tác với trẻ nhiều hơn, hệ thống cộng đồng có hiểu biết hơn để thể hiện thái độ không kì thị đối với trẻ cũng như đối với gia đình trẻ, để trẻ có cơ hội được chơi cùng các bạn như những bạn khác. Bên cạnh đó họ cũng có những kĩ năng hoặc những ứng xử phù hợp khi gặp những trẻ này.Với hệ thống nhà trường nơi giáo dục trẻ có thể cần có vai trò của nhân viên xã hội để hướng dẫn cũng như hỗ trợ các giáo viên khi trong lớp học của họ có những học sinh là TTK. Với những giáo viên giáo dục thông thường chắc chắn họ sẽ không có những kĩ năng nhất định để ứng phó với những tình huống trong lớp học như những hành vi gây hấn hay những biểu hiện thay đổi về trạng thái cảm xúc một cách đột ngột của trẻ. Vì vậy việc phát huy những vai trò của nhân viên xã hội trong hệ thống này có thể giúp hạn chế những tình huống bất đắc dĩ xảy

ra đối với trẻ hoặc đối với nhóm trẻ có TTK, hạn chế tối đã những mâu thuẫn hoặc những tình huống mà giáo viên có thể gặp rắc rối.

1.2.3. Thuyết nhận thức hành vi

Khái niệm về nhận thức: Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể. [12, tr.25]

Khái niệm về hành vi: hành vi là xử sự của con nguời trong 1 hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ nhất định. [12, tr.25]

Nội dung của thuyết: thuyết này cho rằng: chính tư duy quyết định phản ứng chứ không phải do tác nhân kích thích quyết định. Sở dĩ chúng ta có những hành vi hay tình cảm lệch chuẩn vì chúng ta có những suy nghĩ không phù hợp. Do đó để làm thay đổi những hành vi lệch chuẩn chúng ta cần phải thay đổi chính những suy nghĩ không thích nghi.

Mô hình: S -> C -> R -> B: Trong đó: S là tác nhân kích thích, C là nhận thức, R là phản ứng, B là kết quả hành vi.

Giải thích mô hình: Theo sơ đồ thì S không phải là nguyên nhân trực tiếp của hành vi mà thay vào đó chính nhận thức C về tác nhân kích thích và về kết quả hành vi mới dẫn đến phản ứng R. [12, tr.25]

Với lý thuyết nhận thức hành vi nhân viên xã hội sẽ tập trung vào việc khai thác và giải thích tại sao CM lại có những suy nghĩ sai lệch và đặt vai trò can thiệp to lớn là ở các nhà giáo dục chuyên biệt chứ không phải các bậc CM. Mặt khác cũng nhờ vào nhận thức hành vi CM sẽ được nhân viên xã hội giải thích và chỉ rò vai trò quan trọng trong việc can thiệp cho trẻ là ở chính CM và người chăm sóc trẻ chứ không nằm ở những nhà giáo dục chuyên biệt hay lực lượng nào khác. Thuyết nhận thức hành vi cũng sẽ giúp nhân viên xã hội giải quyết được việc những nhận thức sai lệch của cộng đồng về TTK đồng thời làm cho cộng đồng cũng như những bậc phụ huynh có con hoặc không có con hiểu rò về tình trạng TK và có những hành vi ứng xử đúng đắn với TTK nhằm tạo điều kiện cho TTK có cơ hội phát triển một cách toàn diện và có cơ hội hội nhập nhiều hơn với mọi người xung quanh.

Ngoài ra thuyết nhận thức hành vi còn góp phần vào tiến trình can thiệp với trẻ để thay đổi nhận thức và hành vi cho TTK trong quá trình CTS. việc ứng dụng lý thuyết nhận thức hành vi trong tiến trình can thiệp còn giúp cho nhân viên xã hội có

thể ứng dụng để thay đổi nhận thức và hành vi của trẻ trong quá trình can thiệp, làm cho trẻ thay đổi nhận thức dẫn đến thay đổi hành vi. Lý thuyết nhận thức hành vi đưa trẻ hướng tới việc nhận thức những hành vi của mình. Điều này có nghĩa khi sử dụng lý thuyết này ta hướng đến việc dạy trẻ cách nhận thức hành vi. Để trẻ hiểu ra hành vi của mình hiện tại là hành vi không phù hợp, từ đó dạy trẻ cách thay đổi hành vi, dạy trẻ hiểu ra những hành vi phù hợp đối với trẻ và dạy trẻ cách thực hiện hành vi phù hợp ấy. Bên cạnh đó đây còn là lý thuyết quan trọng để dạy nhận thức cho trẻ.

1.3. Một số vấn đề chung về tự kỷ

1.3.1. Hội chứng tự kỷ

TK đã xuất hiện từ rất lâu, tuy nhiên theo một số tài liệu như “Sổ tay thống kê và chẩn đoán những rối nhiễu tâm thần IV ( DSM-IV)”, “ khái quát về TK” ( Overview of Autism) của viện nghiên cứu TK Mỹ, hay cuốn “TK”( Autism) của Rychard Sympsin và Paul Zionts thi Leo Kanner, nhà tâm thần học thuộc trường đại học John Hopkins ở Baltimore(Mỹ) lần đầu tiên đã nhận dạng hội chứng TK vào năm 1943. Ông đã mô tả những đặc điểm đặc biệt của một số trẻ 11 tuổi như: Khó phát triển quan hệ xã hội với mọi người xung quanh, chậm phát triển ngôn ngữ, giao tiếp và không có khả năng sử dụng ngôn ngữ khi đã nói được, có hành vi trùng lặp và rập khuôn, thiếu trí tưởng tượng, giỏi học vẹt, bị ám ảnh đối với sự trùng lặp mặc dù diện mạo bên ngoài vẫn bình thường. Ngoài ra, những trẻ này còn bị ảnh hưởng bởi sự trì hoãn phát triển (chậm hình thành kỹ năng và nhận thức hơn so với trẻ bình thường) và gặp nhiều khó khăn trong việc tương tác và thích ứng với những thay đổi từ môi trường.Thậm chí có những trẻ đã hình thành các kỹ năng nhận thức, thích ứng xã hội, vận động nhưng sau đó, các kỹ năng này lại biến mất. Ông gọi tình trạng mới phát hiện này là” sự TK thời ấu nhi( early infanfile autism), nguồn gốc thuật ngữ này đến từ tiếng Hy Lạp( “Auto” có nghĩa là tự mình, bởi vì các trẻ này dường như bị kìm hãm bên trong). Cho đến nay, với sự phát triển của y học giáo dục, người ta đã khám phá ra rất nhiều điều về hội chứng này. Rối loạn TK đôi khi được gọi là sự TK thời ấu nhi, sự TK thời trẻ thơ hoặc TK Kanner.[28]

Năm 1944 có sự trùng lặp kỳ lạ là bác sĩ nhi khoa Asperger tại Đức cũng có mô tả những triệu chứng tương tự mà về sau người ta gọi là hội chứng Asperger. Cả Asperger và Leo.Kanner đều không biết gì về nghiên cứu của nhau mà cùng đặt tên cho chứng tâm thần này là “Autism”. Nghiên cứu của bác sỹ Asperger vì xuất bản

trong lúc có thế chiến thứ II và bằng tiếng Đức, nên thế giới không biết gì về tài liệu của ông và tài liệu này mới chỉ được dịch sang tiếng Anh vào năm 1991.

Những biểu hiện của chứng TK khá đa dạng và có mức độ khác nhau do vậy có những trẻ bị nhẹ thường được phát hiện muộn khi đang đi học ở tiểu học. Ngược lại có những trẻ bị nặng, thể điển hình có thể được CM phát hiện và đưa đi khám sớm ngay từ lúc 12-18 tháng tuổi. Bên cạnh đó, có một số chứng rối loạn phát triển ở trẻ em cũng có biểu hiện tương tự như TK. Do vậy, TK cần được phân biệt với một số hội chứng rối loạn phát triển khác. Theo phân loại của “Hội Tâm thần Mỹ”, có 5 chứng thuộc nhóm các rối loại phát triển lan toả kiểu TK, hay “phổ TK”, bao gồm:

Hội chứng Asperger Tự kỷ

Hội chứng Rett

Hội chứng thoái triển trẻ em

Các rối loạn phát triển không đặc hiệu khác.

Trong nhóm các rối loạn phát triển kiểu TK này thì chứng Asperger là hội chứng TK với các biểu hiện nhẹ nhất so với các trường hợp còn lại.[7, tr.9]. Tuy nhiên trong khuôn khổ nghiên cứu chúng tôi xin phép chỉ sử dụng thông tin và khái niệm của hội chứng TK.

1.3.2. Một số dấu hiệu nhận biết sớm tự kỷ

Theo Trần Thị Thu Hà, Nguyễn Hương Giang (2003) trong cuốn “ Bước đầu tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ, lâm sàng bệnh TK ở Việt Nam” TK có khiếm khuyết đặc trưng bằng 3 lĩnh vực:

Khiếm khuyết về quan hệ tương tác với mọi người[6].

- fKhông thưa khi được gọi tên

- Không nhìn mặt người đối thoại khi chơi, giao tiếp

- Tỏ ra không nghe thấy ai lúc đó (trẻ như không ở đó)

- Kháng lại sự vuốt ve âu yếm hoặc ôm ấp

- Tỏ ra không biết đến tình cảm của người khác.

- Thích chơi một mình – co lại trong thế giới riêng của trẻ.

Trẻ bị TK có khó khăn lớn trong việc kết bạn, duy trì tình bạn và tiếp thu các luật lệ xã hội. Trẻ không biết khởi xướng, bắt đầu làm quen, hoặc khó tiếp nhận một

Xem tất cả 148 trang.

Ngày đăng: 24/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí