Nội dung công bố TTTC đã được bổ sung các chuẩn mực quy định tiệm cận với chuẩn mực quốc tế theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam.
Các thông tin trên BCTC được sử dụng kết hợp cùng với các thông tin đánh giá của BGĐ, HĐQT của doanh nghiệp tạo nên bức tranh tổng quan về tình hình, kết quả kinh doanh cũng như xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Nội dung mang tính cốt lõi, bắt buộc của BCTN là báo cáo tài chính của DNPTCNY được trình bày khá đầy đủ với các bảng biểu, các chỉ tiêu mang tính quy phạm, với ý kiến đánh giá và xác nhận của các tổ chức kiểm toán độc lập.
Thực trạng tài chính không chỉ thể hiện bằng các thông tin trên bảng cân đối kế toán, trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, mà bao gồm các thuyết minh, các tính toán và phân tích đánh giá về kết quả, hiệu quả kinh doanh, về tình trạng tài chính và những lý giải cần thiết mang tính định lượng của tình hình và nguyên nhân ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh.
2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân
2.4.2.1. Những tồn tại
Về quản lý công bố thông tin tài chính
Các quy định về quản lý CBTT chưa có sự quan tâm đúng mức đến các TTTC tự nguyện, chưa có sự hướng dẫn , khuyến khích hay bất cứ ghi nhận gì đối với các DNPTCNY trong việc cung cấp thông tin tự nguyện. Sự thiếu quan tâm tới hoạt động công bố TTTC tự nguyện làm giảm đi dự đa dạng của các loại thông tin và không khuyến khích được các DNPTCNY minh bạch hơn trong các hoạt động, góp phần thúc đẩy quản trị công ty hiệu quả.
Mặc dù các quy định pháp lý về CBTT đã được ban hành khá rõ ràng tuy nhiên qua nghiên cứu thực trạng cho thấy mức độ công bố TTTC trên BCTN của DNPTCNY trên TTCK chưa đồng đều. Quy định về đánh giá xếp loại các vấn đề liên quan đến minh bạch và CBTT chưa được quan tâm do đó chưa có những quy định về tiêu chí đánh giá, xếp hạng mức độ CBTT cho các DNPTCNY trên TTCK Việt Nam.
Quy định về phương tiện CBTT chưa có tính đột phá trong việc cập nhật công nghệ mới, tích hợp hình ảnh, âm thanh và các công cụ phân tích trực tuyến trên Internet vì vậy các DNPTCNY vẫn chỉ sử dụng hình thức CBTT truyền thống trên
internet tức là chỉ cập nhật BCTN theo định dạng PDF lên môi trường Internet mà không có các định dạng khác để hỗ trợ người sử dụng thông tin trong việc khai thác dữ liệu phục vụ cho nhu cầu phân tích các TTTC chi tiết hơn.
Có thể bạn quan tâm!
- Mức Độ Công Bố Tttc Bắt Buộc Chi Tiết Của Từng Nội Dung Được Trình Bày Tại
- Thực Trạng Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Mức Độ Công Bố Thông Tin Tài Chính Của Các Doanh Nghiệp Phi Tài Chính Niêm Yết Trên Ttck Việt Nam
- = 84,251 + 0.298 Audit + 0.230 Lev + 0.161 Boards + 0.126 Tsan +
- Hoàn Thiện Công Tác Quản Lý Giám Sát Hoạt Động Công Bố Thông Tin Tài Chính Trên Ttck
- Chuẩn Bị Nền Tảng Kỹ Thuật Cho Việc Lập Và Trình Bày Bctc Theo Ifrs
- Công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 20
Xem toàn bộ 174 trang tài liệu này.
Quy định về ngôn ngữ CBTT trên BCTN bằng tiếng Anh mới chỉ dừng lại ở mức độ khuyến khích mà chưa mang tính bắt buộc. Tuy nhiên trong quy định cũng không có cơ chế ghi nhận, khen thưởng, xếp hạng cho các DNPTCNY tự nguyện công bố BCTN bằng tiếng Anh làm giảm động lực triển khai của các doanh nghiệp.
Hành lang pháp lý về kế toán, kiểm toán còn nhiều kẽ hở, chưa có chế tài xử phạt khi có sai sót trong BCTC tự lập, thậm chí những sai sót đó diễn ra thường xuyên và có tính trọng yếu. Qua khảo sát cho thấy còn nhiều DNPTCNY chưa lập và công bố BCTC kiểm toán đúng thời hạn quy định, số liệu trước và sau khi kiểm toán còn có sự chênh lệch lớn, BCTC chưa hợp nhất đầy đủ công ty con, chưa thuyết minh đầy đủ giao dịch với bên liên quan, một số doanh nghiệp chưa thực hiện kiểm kê tiền mặt tại quỹ, hàng tồn kho, tài sản cố định, xây dựng cơ bản dở dang, BCTC kiểm toán có ý kiến kiểm toán chưa phù hợp…
Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt nam chưa có các chuẩn mực tương đương với 15 chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), các chuẩn mực hiện tại cũng có sự khác biệt với chuẩn mực kế toán quốc tế do chưa được cập nhật theo phiên bản mới nhất. Việc đo lường và trình bày về công cụ tài chính, giá trị hợp lý và giảm giá tài sản là những lĩnh vực còn thiếu trong chuẩn mực kế toán Việt Nam
Các văn bản quy định trong lĩnh vực kế toán chưa có sự thống nhất như quan hệ giữa chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán. Chuẩn mực kế toán chỉ được áp dụng khi có thông tư hướng dẫn tuy nhiên trong thực tế lại xuất hiện nhiều tình huống khác biệt giữa chuẩn mực và thông tư từ đó nảy sinh mâu thuẫn gây khó khăn cho DNPTCNY trong trình bày và công bố TTTC.
Về nội dung công bố thông tin tài chính
Nội dung báo cáo thường niên
Các nội dung trong BCTN mặc dù đã được quy định khái quát các thông tin cần đề cập đến nhưng với những TTTC quan trọng được các nhà đầu tư quan tâm, cần có sự giải trình cụ thể của BGĐ hay những thông tin kế hoạch mang tính chất dự báo của doanh nghiệp lại chưa được quy định cụ thể trong thông tư hướng dẫn,
dẫn đến thực trạng CBTT đối với các nội dung này còn rất sơ sài và chưa đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.
Nội dung thông tin tài chính bắt buộc
Một số TTTC bắt buộc chưa phản ánh đúng bản chất của nghiệp vụ kế toán, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do có sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế về quy tắc ghi nhận các yếu tố của BCTC. Nhiều TTTC chưa được trình bày đầy đủ theo quy định.
Hệ thống BCTC theo VAS có sự khác biệt với hệ thống BCTC theo IAS/IFRS về số lượng, hình thức báo cáo và các chỉ tiêu trên báo cáo.
Nội dung thông tin tài chính tự nguyện
TTTC tự nguyện mà các DNPTCNY công bố chưa có sự gắn kết với các nội dung đã được công bố trong báo cáo của BGĐ để làm rõ hơn những vấn đề thực trạng của doanh nghiệp.
TTTC tự nguyện công bố còn sơ sài, chủ yếu so sánh số liệu tổng thể mà chưa chi tiết cho các bộ phận cấu thành, phương pháp phân tích chủ yếu là phương pháp so sánh, chưa trình bày số liệu phân tích lên bảng biểu làm cho việc theo dõi gặp nhiều khó khăn.
Các yếu tố ảnh hưởng tới CBTT
Yếu tố công ty kiểm toán ảnh hưởng mạnh nhất đến mức độ CBTT của các DNPTCNY trên TTCK Việt Nam tuy nhiên chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập giữa các công ty kiểm toán được chấp thuận kiểm toán BCTC của DNPTCNY còn có sự chênh lệch đáng kể.
2.4.2.2. Nguyên nhân của các tồn tại
VAS được xây dựng dựa trên IAS/IFRS từ những năm 2001 tới 2005, tuy nhiên cho đến nay nhiều Chuẩn mực Kế toán Quốc tế đã được ban hành mới và cập nhật hoặc bãi bỏ một số chuẩn mực nhưng VAS vẫn chưa được bổ sung hay sửa đổi. Ngoài ra, các diễn giải chuẩn mực do Uỷ ban hướng dẫn chuẩn mực BCTC quốc tế ban hành như là một phần không tách rời của IFRS hoàn toàn chưa được sử dụng tại Việt Nam làm cho việc tiếp cận các khái niệm mới và cách thức ghi nhận gặp nhiều khó khăn.
Các khuôn khổ pháp lý còn chưa thực sự chặt chẽ, chế tài xử phạt chưa đủ mạnh, vai trò kiểm tra, thanh tra xử lý vi phạm của cơ quan quản lý nhà nước chưa đảm bảo. Cơ quan nhà nước mới chỉ chú trọng hơn vào khâu nghiên cứu, ban hành
chế độ, chuẩn mực kế toán mà chưa có nhiều điều kiện thực hiện kiểm tra, giám sát tính tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán.
Các công ty kiểm toán trong nước thường gặp khó khăn trong việc xây dựng hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ và thiếu hỗ trợ chuyên môn từ các hãng kiểm toán quốc tế. Hơn nữa, các tiêu chí xác định công ty kiểm toán đủ tiêu chuẩn kiểm toán các đơn vị có lợi ích công chúng hiện tại đang tập trung vào các chỉ tiêu số lượng hơn là dựa trên chất lượng quy trình kiểm toán.
Một số quy định về CBTT hiện nay còn chưa rõ ràng khiến các DN lúng túng trong thực thi, hệ thống CBTT còn chưa đồng bộ giữa UBCKNN và Sở GDCK; ý thức tuân thủ pháp luật của một số DNPTCNY còn hạn chế...
Bản thân các DNPTCNY chưa nhận thức đầy đủ vai trò của CBTT, DNPTCNY lập các báo cáo vì thực hiện theo quy định pháp luật chứ chưa quan tâm đến nhu cầu sử dụng thông tin của nhà đầu tư nên có nhiều nội dung chỉ lập cho có chứ chưa đảm bảo nội dung đáp ứng nhu cầu nhà đầu tư.
Trình độ, năng lực của đội ngũ nhân viên kế toán trong DNPTCNY là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc vận dụng chuẩn mực kế toán trong công bố TTTC. Quá trình thu nhận, xử lý thông tin, lập và trình bày BCTC chủ yếu được nhân viên kế toán thực hiện dựa vào quy định của chế độ kế toán, ít quan tâm nghiên cứu và vận dụng CMKT. Hơn nữa, một số nội dung được quy định trong các CMKT nhưng lại chưa được cụ thể hoá trong chế độ kế toán làm cho kế toán viên hiểu sai quy định dẫn đến xử lý nghiệp sai nên ảnh hưởng đến thông tin được công bố.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, luận án đã thực hiện đánh giá thực trạng công bố TTTC theo nội dung công bố theo luật định để thấy được sự phù hợp về quản lý công bố TTTC của Việt Nam so với quốc tế. Luận án cũng khảo sát thực trạng công bố TTTC trên BCTN của các DNPTCNY để thấy được sự tuân thủ, tình hình thực hiện công bố TTTC. Luận án thực hiện khảo sát 300 DNPTCNY trên TTCK để đánh giá mức độ công bố TTTC và đã xác định được ảnh hưởng của các yếu tố tài sản, vốn hoá, quy mô ban giám đốc, đòn bẩy tài chính và công ty kiểm toán ảnh hưởng đến mức độ công bố TTTC. Dựa vào kết quả khảo sát, luận án đã chỉ ra những tồn tại và nguyên nhân để làm cơ sở đưa ra giải pháp trong chương 3.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÔNG BỐ THÔNG TIN TÀI CHÍNH TRÊN BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH NIÊM YẾT TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Kế hoạch tổng thể về cơ cấu lại và phát triển TTCK lộ trình tới năm 2025 mà Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã trình chính phủ phê duyệt tại quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 28/2/2019 bao gồm các mục tiêu.
Quy mô của thị trường chứng khoán đạt 120% GDP, quy mô thị trường trái phiếu đạt 55%, số lượng nhà đầu tư đạt 5% dân số đồng thời đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức, giữa NĐT trong nước và nước ngoài, tạo cơ chế phát triển nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán.
Lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị, nâng cao chỉ tiêu an toàn tài chính của các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Đồng bộ công nghệ giao dịch, thanh toán, bù trừ trên TTCK. Đến năm 2025, chất lượng quản trị của DNNY phải đạt mức bình quân của ASEAN5.
Sớm đưa hệ thống công nghệ thông tin mới, đồng bộ vào vận hành theo đúng tiến độ để phục vụ tốt hơn nhu cầu giao dịch, nhằm quản lý, vận hành TTCK một cách an toàn, hiệu quả.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế cổ phần hoá, đẩy mạnh công tác cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước gắn với việc niêm yết và đăng ký giao dịch nhằm tăng cường phát triển quy mô, chất lượng TTCK Việt Nam, phát triển thị trường trái phiếu DN đáp ứng nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp và công chúng đầu tư.
Triển khai các giải pháp nâng hạng TTCK Việt Nam từ “Thị trường cận biên” lên “Thị trường mới nổi” trên bảng xếp hạng của tổ chức về xếp hạng thị trường (MSCI và FTSE); xây dựng các quy định về xếp hạng tín nhiệm và thiết lập tổ chức định mức tín nhiệm Việt Nam.
Tăng cường thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm, đảm bảo kỷ cương, kỷ luật thị trường, tạo dựng lòng tin cho công chúng đầu tư, giúp TTCK phát triển ổn định và bền vững.
Tăng cường mở cửa và hội nhập với thị trường khu vực và thế giới, thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế, rà soát và hoàn thiện các giải pháp thu hút nhà đầu tư nước ngoài và giải pháp nâng hạng TTCK Việt Nam.
3.2. Căn cứ đề xuất các giải pháp hoàn thiện công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên
Trong chương này, dựa trên các nội dung phân tích, biện luận trong chương 1 và kết quả khảo sát, đánh giá thực trạng về CBTT đã trình bày trong chương 2, NCS sẽ trình bày các giải pháp và khuyến nghị nhằm hoàn thiện công bố TTTC trên BCTN của các DNPTCNY trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Ngoài các cơ sở khoa học, khi thực thi bất kỳ một giải pháp, khuyến nghị nào cũng cần chú ý đến yếu tố môi trường kinh doanh, pháp luật, xu thế hội nhập và trình độ công nghệ ảnh hưởng đến sự khả thi của các giải pháp, khuyến nghị. Quan điểm của NCS khi tiến hành các đề xuất liên quan đến vấn đề này như sau.
3.2.1. Phù hợp với môi trường kinh doanh, môi trường pháp luật
Do tập quán kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thường chỉ chú trọng đến các vấn đề lợi nhuận trong ngắn hạn mà chưa chú trọng đến tính bền vững và dâu dài cũng như lợi ích của cộng đồng nên chưa chủ động trong việc CBTT một cách công khai, minh bạch. Hơn nữa, các chuẩn mực về đạo đức kinh doanh và nghề nghiệp còn chưa được coi trọng trong khi quá trình CBTT lại liên quan đến rất nhiều các đối tượng có quan hệ lợi ích cá nhân dẫn đến những đối tượng này có xu hướng lựa chọn phương án có lợi cho bản thân hơn là cho cộng đồng. Vì vậy, giải pháp, khuyến nghị cần chú ý đến những đối tượng có liên quan trong quá trình lập BCTC.
Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam dù đã được đổi mới và xây dựng lại một cách toàn diện hơn nhưng một số văn bản được ban hành bởi các Bộ ban ngành vào những thời điểm khác nhau nên vẫn còn sự chồng chéo nên không thể tránh khỏi những thiếu sót và mâu thuẫn giữa các văn bản được ban hành; khoảng cách giữa các quy định trong luật trên văn bản và thực tế tại các DNPTCNY vẫn còn tồn tại. Vì vậy, việc đề xuất các giải pháp, khuyến nghị phải trên cơ sở tập hợp và so sánh giữa các văn bản hiện hành, cần chú ý đến sự phát triển của môi trường kinh doanh để kịp thời cập nhật cũng như nhu cầu bảo vệ lợi ích của công chúng.
3.2.2. Đáp ứng yêu cầu phát triển và bền vững của thị trường chứng khoán
Sự phát triển kinh tế của một quốc gia có thể được đo lường thông qua thị trường tài chính trong đó có thị trường chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán, giá chứng khoán là yếu tố tổng hợp các thông tin doanh nghiệp và thị trường, trong
đó có TTTC là thước đo phát triển và bền vững. Như vậy, công bố TTTC một cách đầy đủ, kịp thời và minh bạch sẽ giúp cho giá chứng khoán phản ánh một cách chính xác và đầy đủ hơn giá trị của doanh nghiệp, kéo theo sự phát triển bền vững cho thị trường. Trong mỗi giai đoạn khác nhau của thị trường thì sự phát triển sẽ được xác định ở các mức độ khác nhau, do đó nhu cầu về CBTT cũng phải dựa trên các giai đoạn đó của thị trường.
3.2.3. Phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế về kế toán
Mục tiêu của TTTC nhằm giúp cho các nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư quốc tế và các đối tượng có liên quan đưa ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động đầu tư của mình. Để thu hút được các nguồn tài chính quốc tế và trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các quy định về kế toán của Việt Nam cần có sự thay đổi căn bản cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều đó thúc đẩy việc ra đời và phát triển của các chuẩn mực Báo cáo tài chính hướng đến việc trình bày TTTC để đảm bảo lợi ích cao hơn của các đối tượng sử dụng thông tin.
3.2.4. Tăng cường ứng dụng công nghệ trong hoạt động công bố thông tin
Công nghệ, đặc biệt là công nghệ tin học đã góp phần làm thay đổi hoàn toàn quá trình xử lý dữ liệu trong kế toán từ xử lý thủ công trước đây thành tự động hóa, bên cạnh đó nhờ sức mạnh công nghệ đã mang thông tin đi xa hơn, nhanh hơn và rộng hơn. Việc áp dụng IFRS đòi hỏi hệ thống công nghệ thông tin hiện đại hỗ trợ quá trình thu thập, chuẩn hoá dữ liệu, xử lý dữ liệu, cũng như kết nối mọi hoạt động từ tất cả các phòng ban bên trong doanh nghiệp hoặc với các bên liên quan từ bên ngoài doanh nghiệp. Vì vậy, trong quá trình áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế, chuẩn mực BCTC quốc tế tại Việt Nam cần quan tâm đến yếu tố công nghệ vì đây là một trong các giải pháp sẽ mang lại tính đột phá và khả thi cho giải pháp, khuyến nghị có liên quan đến sự nhanh chóng và thuận tiện trong việc khai thác, sử dụng TTTC trong việc nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích đánh giá phục vụ cho việc ra quyết định đầu tư.
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên TTCK Việt Nam
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện về quản lý công bố thông tin tài chính trên TTCK
3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về công bố thông tin tài chính
Để đảm bảo cho TTCK Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới đòi hỏi các quy định pháp luật về CBTT của các DNPTCNY cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu khách quan của thị trường. Trọng tâm của quá trình hoàn thiện này liên quan đến các quy định của thông tư 155/2015/TT-BTC đã được trình bày và phân tích trong chương 2. Các quy định về CBTT trên BCTN theo TT155/2015/TT-BTC cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo các định hướng như sau:
Thứ nhất, chính thức thừa nhận giá trị pháp lý và điều chỉnh hoạt động CBTT tự nguyện, theo đó các DNPTCNY được quyền công bố những thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp ngoài những thông tin bắt buộc phải công bố. Các thông tin tự nguyện này phải đảm bảo tính trung thực, chính xác, kịp thời và DNPTCNY phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin công bố. Bổ sung cơ chế khuyến khích cho các DNPTCNY thực hiện CBTT tự nguyện nhằm đa dạng hoá các loại thông tin.
Thứ hai, đa dạng hoá hình thức CBTT của BCTN, BCTC. Theo khoản 1 điều 7 trong thông tư 155/2015/TT-BTC quy định về phương tiện CBTT gồm có phương tiện truyền thống như báo giấy và các phương tiện điện tử khác nhưng chưa có quy định cụ thể về sự khác biệt giữa các hình thức công bố báo cáo. Trong điều kiện CNTT ngày càng phát triển như hiện nay, nhu cầu sử dụng thông tin không chỉ dừng lại ở việc đọc các bản báo cáo ở dạng bản giấy hay bản PDF mà các nhà đầu tư chuyên nghiệp, các nhà phân tích còn có nhu cầu thu thập và sử dụng TTTC để xử lý, phân tích và đánh giá. Vì vậy, để tăng cường ứng dụng CNTT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động CBTT cần bổ sung quy định về hình thức của BCTN, BCTC được công bố trên Internet bằng việc ứng dụng công nghệ XBRL (Extensivble Business Reporting Languge), ngôn ngữ báo cáo doanh nghiệp mở rộng để người sử dụng có thể dễ dàng trích xuất dữ liệu điện tử phục vụ cho việc tính toán, xử lý dữ liệu.
Thứ ba, cần nâng cao quy định bắt buộc về ngôn ngữ sử dụng trong CBTT trên TTCK bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, TTCK Việt Nam ngày càng thu hút nhiều các nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Trong giai đoạn kết nối với TTCK khu vực và quốc tế việc CBTT trên BCTN bằng tiếng Anh sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch của TTCK, đối xử công bằng giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.