Mức Độ Công Bố Tttc Bắt Buộc Chi Tiết Của Từng Nội Dung Được Trình Bày Tại


DNPTCNY đều cho rằng đây là một nội dung khó vì vậy trong trường hợp có phát sinh thì cũng thường né tránh trong việc trình bày và thuyết minh các thông tin này.

Luận án thực hiện tổng hợp thống kê mức độ công bố TTTC bắt buộc theo các nội dung về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp; chính sách kế toán; tài sản; nợ phải trả; vốn chủ sở hữu; kết quả hoạt động kinh doanh; báo cáo lưu chuyển tiền tệ tại Bảng

2.6. Mức độ công bố TTTC bắt buộc chi tiết của từng nội dung được trình bày tại

phụ lục 26.

Bảng 2.4: Thống kê mức độ công bố TTTC bắt buộc theo VAS


TT

Chỉ báo

Mức độ

CBTT

1

CBTT tài chính bắt buộc về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp

89,67%

2

CBTT tài chính bắt buộc về chính sách kế toán

82,66%

3

CBTT tài chính bắt buộc về tài sản

73,96%

4

CBTT bắt buộc về nợ phải trả.

83,38%

5

CBTT bắt buộc về vốn chủ sở hữu.

85,52%

6

CBTT bắt buộc về kết quả hoạt động kinh doanh.

90,1%

7

CBTT bắt buộc về báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

95,3%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 174 trang tài liệu này.

Công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 14

Nguồn: NCS tổng hợp Theo kết quả thống kê có thể thấy thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp trong năm tài chính có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính và tuyên bố về khả năng so sánh thông tin trên BCTC là 2 loại thông tin có mức độ công bố thấp nhất. Theo quy định của thông tư 155/2015/TT-BTC doanh nghiệp phải tuyên bố các thông tin trên BCTC có so sánh được hay không và nếu không so sánh được thì phải nêu rõ lý do tuy nhiên chỉ có 15% các DNPTCNY được khảo sát tuyên bố về điều này. Trong những năm gần đây, khi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó sự ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid19 đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường trong nước và quốc tế làm thay đổi quy mô doanh

nghiệp nhưng chỉ có 21% DNPTCNY công bố về thông tin này là con số rất nhỏ.

Kết quả thống kê các chỉ tiêu nguyên tắc ghi nhận các khoản tiền và khoản tương đương tiền; nguyên tắc ghi nhận hàng tồn kho; nguyên tắc kế toán nợ phải trả; nguyên tắc ghi nhận vốn chủ sở hữu; nguyên tắc và phương pháp ghi nhận doanh thu đạt mức độ CBTT là 100% do đây là các chỉ tiêu phát sinh thường xuyên trong


các DNPTCNY. Tuy nhiên, một số các chỉ tiêu khác thường xuyên phát sinh nhưng vẫn chưa được các DN chấp hành công bố đầy đủ như nguyên tắc kế toán giá vốn hàng bán; nguyên tắc kế toán chi phí tài chính; nguyên tắc kế toán chi phí bán hàng, chi phí QLDN; nguyên tắc ghi nhận và vốn hoá các khoản chi phí đi vay bởi vì khi đối chiếu số liệu trên BCĐKT và BCKQHDKD của doanh nghiệp có phát sinh các khoản mục này nhưng trong thuyết minh BCTC lại không đề cập.

Mức độ công bố TTTC bắt buộc về tài sản đạt 73,96% trong đó thấp nhất là các thông tin tóm tắt tình hình hoạt động của công ty con, công ty liên doanh, liên kết trong kỳ và giao dịch trọng yếu giữa doanh nghiệp với các công ty con, công ty liên doanh, liên kết trong kỳ. Thông tin về giá trị hợp lý của các khoản đầu tư tài chính dài hạn và giá trị hợp lý của BĐS đầu tư tại thời điểm kết thúc niên độ đạt mức độ CBTT tương ứng là 15,21% và 10,6% tuy nhiên nội dung công bố hầu hết chỉ giải trình lý do không xác định được giá trị hợp lý như là “chưa đủ thông tin cần thiết để đánh giá giá trị hợp lý” hay là “đang tìm kiếm công ty định giá để xác định giá trị hợp lý của bất động sản đầu tư” hoặc “do chưa có hướng dẫn cụ thể, hơn nữa thị trường hoạt động để xác định giá trị hợp lý chưa phát triển nên thiếu căn cứ xác định”….

Thông tin về trích lập dự phòng đã được quy định và hướng dẫn cụ thể về chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho tại Thông tư 228/2009/TT-BTC ngày 7/12/2009 của BTC, sửa đổi bổ sung vào năm 2013. Thông tư mới nhất được ban han hành ngày 8/8/2019 hướng dẫn việc trích lập và xử lý các khoản dự phòng giảm giá HTK, tổn thất các khoản đầu tư, nợ khó đòi và bảo hành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, công trình xây dựng tại doanh nghiệp nhưng thực tế mức độ CBTT đối với nội dung này vẫn chưa được DNPTCNY trình bày đầy đủ, thông tin chi tiết dự phòng HTK chỉ đạt 18,98%. Qua khảo sát cho thấy DNPTCNY có trình bày chỉ tiêu dự phòng giảm giá HTK trên BCĐKT nhưng trong thuyết minh BCTC lại không trình bày chi tiết hoặc chỉ trình bày lại chỉ tiêu tổng hợp như đã trình bày trên BCĐKT. Theo ý kiến của một chuyên gia trong lĩnh vực kiểm toán, một số doanh nghiệp sử dụng khoản trích lập dự phòng nhằm mục đích điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ như trên BCTC hợp nhất năm 2019 của một công ty con của Petrolimex đã bị CTKT KPMG lưu ý về việc trích lập dự phòng


giảm giá hàng tồn kho 135 tỷ đồng nên đã làm cho giá vốn hàng bán và cung cấp dịch vụ cùng lợi nhuận kế toán trước thuế của doanh nghiệp này giảm tương ứng từ đó ảnh hưởng giảm đến số thuế TNDN phải nộp làm ảnh hưởng đến việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính như ROA, ROE, chỉ số EPS là rất trọng yếu.

Trong điều kiện kinh doanh hiện nay, khoản phải thu khách hàng phát sinh thường xuyên và chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản phải thu. Để quản lý tốt khoản mục này các doanh nghiệp thường theo dõi theo từng đối tượng, đặc biệt là đối với các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn vì nếu không kiểm soát tốt sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hồi, ảnh hưởng đến dòng tiền của doanh nghiệp. Việc công bố cụ thể các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn sẽ giúp cho người sử dụng thông tin biết được khách hàng lớn của DNPTCNY là những ai và nếu đó là khách hàng đang gặp khó khăn về tài chính thì đó sẽ là thông tin quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hồi nợ của DNPTCNY. Theo phản hồi của một số DNPTCNY, nguyên nhân hạn chế CBTT chi tiết khoản phải thu khách hàng chiếm 10% trở lên trên tổng doanh thu của khách là do doanh nghiệp không muốn tiết lộ thông tin khách hàng lớn của doanh nghiệp vì lý do cạnh tranh.

Thông tin công bố về nợ phải trả được trình bày tương đối đầy đủ, trong đó các chỉ tiêu tổng hợp được trình bày với tỷ lệ cao cho đến tuyệt đối tuy nhiên vẫn còn một số nội dung được công bố ở mức thấp thậm chí không có DNPTCNY nào công bố như thông tin nợ phải trả theo bộ phận mặc dù yêu cầu này đã được quy định trong chuẩn mực VAS 28. Các khoản phải trả người bán chiếm từ 10% trở lên trên tổng các khoản phải trả người bán được trình bày với mức độ 5,15%. Các khoản nợ vay tài chính chủ yếu được các DNPTCNY trình bày chi tiết theo khoản vay ngắn hạn hay dài hạn mà không được chi tiết theo thời gian vay như yêu cầu trong thông tư 200/TT-BTC. Thông tin tổng hợp về tài sản thuế thu nhập hoãn lại và thuế thu nhập hoãn lại phải trả được các doanh nghiệp trình bày trên BCĐKT tương đối đầy đủ nếu có phát sinh tuy nhiên thông tin chi tiết về những khoản này thì chỉ có 1% doanh nghiệp trình bày.

Thông tin bắt buộc về vốn chủ sở hữu được các DNPTCNY công bố với mức độ 85,52% tuy nhiên thông tin về các khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán và thu nhập và chi phí, lãi lỗ được ghi nhận trực tiếp vào vốn chủ sở hữu theo quy định của các chuẩn


mực kế toán cụ thể được trình bày với mức thấp, tương ứng lần lượt với kết quả 1,25% và 6,27%.

Trong nhóm thông tin bắt buộc về kết quả hoạt động kinh doanh, thông tin về doanh thu và thu nhập là các TTTC quan trọng phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, phần lớn các nhà đầu tư khi đọc BCTC của doanh nghiệp đều tìm kiếm các thông tin này đầu tiên. Vì vậy mức độ CBTT bắt buộc đối với nhóm thông tin về kết quả hoạt động kinh doanh đạt 90,1%. Thông tin chi tiết về thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành và thuế thu nhập doanh nghiệp hoãn lại được công bố ở mức duới 9%.

Thông tin về dòng tiền được phản ánh trên BCLCTT giúp cho người sử dụng thấy được các dòng tiền thu và chi cho từng hoạt động của doanh nghiệp. Đối với những nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm thì việc đọc BCLCTT sẽ cảm thấy khó hiểu do tính phức tạp của các thông tin trình bày trên báo cáo nhưng đối với các nhà đầu tư có kinh nghiệm và có kiến thức về tài chính thì cho rằng đây là báo cáo quan trọng và thông tin dòng tiền trên BCLCTT còn quan trọng hơn thông tin lợi nhuận trên BCKQKD vì nó phản ánh chính xác hơn tình trạng “sức khoẻ” của doanh nghiệp. Vì vậy, các mức độ CBTT của nhóm thông tin này đạt 95,3% trong đó công bố thông tin về dòng tiền của các hoạt động đạt 100%. Các thông tin đạt mức độ công bố thấp nhất trong nhóm này là các khoản tiền do doanh nghiệp nắm giữ nhưng không được sử dụng; các giao dịch không bằng tiền ảnh hưởng đến báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong tương lai.

Nhóm các DNPTCNY công bố TTTC theo IFRS

Theo kết quả khảo sát của tác giả về thực trạng công bố TTTC của 44 DNPTCNY dựa trên danh sách 50 DNNY tốt nhất trên TTCK Việt nam năm 2020 do Forbes công bố (loại trừ 6 DNNY trong lĩnh vực Ngân hàng, Chứng khoán và Bảo hiểm), chỉ có duy nhất CTCP Sữa Việt Nam công bố BCTC được lập theo IFRS trên BCTN.

BCTC theo IFRS lần đầu tiên của Vinamilk được lập vào năm 2005 và tiếp tục được lập định kỳ hàng quý/ hàng năm nhưng đến năm 2016 doanh nghiệp mới công bố báo cáo KQHĐKD và thu nhập khác trên BCTN. Năm 2017, doanh nghiệp công bố Báo cáo tình hình tài chính; Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và thu nhập toàn diện khác; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Năm 2019 doanh nghiệp tiếp tục rà soát cập nhật BCTC theo các chuẩn mực mới được ban hành bao gồm IFRS9, IFRS15, IFRS16. Cho đến năm 2020 và 2021


doanh nghiệp mới cập nhật chính sách kế toán theo dự thảo chuẩn mực mới nhất của BTC và cập nhật đến các phòng ban nội bộ về việc sử dụng IFRS sẽ ảnh hưởng như thế nào đến cách xây dựng ngân sách, đánh giá hiệu quả hoạt động. Dự kiến đến năm 2022 doanh nghiệp sẽ tiên phong áp dụng IFRS theo lộ trình của BTC.

CTCP Sữa Việt Nam là một doanh nghiệp có quy mô rất lớn, nguồn lực tài chính dồi dào và nhiều kinh nghiệm quản lý tuy nhiên qua một thời gian dài thực hiện quá trình chuyển đổi BCTC áp dụng theo IFRS ngoài những lợi ích đem lại thì doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Theo ông Lê Thành Liêm, Giám đốc tài chính, việc áp dụng IFRS đã giúp cho các thông tin trình bày trên BCTC phản ánh rõ tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của DN so với các DN cùng ngành; (i) thuận tiện cho việc đánh giá các DN mục tiêu cho mục đích mua bán và sáp nhập; (ii) thuận lợi cho việc cung cấp số liệu tài chính cho các nhà đầu tư nước ngoài, dễ dàng tiếp cận thị trường vốn quốc tế; (iii) tạo điều kiện cho đội ngũ nhân sự tiếp cận với cách làm việc theo tiêu chuẩn quốc tế, sẵn sàng cho việc áp dụng IFRS trong thời gian tới. Tuy nhiên, ngoài những giá trị lợi ích mà IFRS mang lại thì bản thân doanh nghiệp cũng nhận thấy những khó khăn (i) DN phải nâng cấp hệ thống phần mềm và công nghệ thông tin hiện đại đáp ứng được yêu cầu cập nhật thông tin nhanh chóng và kịp thời do có sự khác biệt giữa IFRS và VAS; (ii) Do IFRS yêu cầu nhiều đến đánh giá giá trị hợp lý theo giá thị trường nên công tác định giá đòi hỏi người làm kế toán phải có kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm thực tế về vấn đề này vì vậy đó là một thách thức lớn đối với nguồn nhân lực hiện có tại DN; (iii) Đòi hỏi một khoản chi phí lớn do phải duy trì song song hai hệ thống BCTC, đào tạo nhân lực, chi phí kiểm toán, định giá…

Theo kết quả phỏng vấn chuyên gia có thể thấy các DNPTCNY đều nhận thấy vai trò và lợi ích khi áp dụng công bố TTTC theo IFRS tuy nhiên những khó khăn và thách thức khi áp dụng IFRS là không nhỏ, bao gồm thị trường hoạt động, năng lực nhân sự của công ty và những chi phí phát sinh. Đó cũng là những nguyên nhân làm cho số lượng DNPTCNY thực hiện công bố TTTC theo IFRS còn hạn chế về số lượng.

2.3.2.2. Công bố thông tin tài chính tự nguyện trên báo cáo thường niên

Thông tin tài chính tự nguyện không được quy định cụ thể trong các văn bản quản lý mà là những thông tin bổ sung được các doanh nghiệp công bố nhằm giải thích và bổ sung các thông tin về tình hình hoạt động, tình hình tài chính hay những vấn đề khác góp phần giúp người sử dụng có thể hiểu rõ về thực trạng của doanh


nghiệp. Hệ thống danh mục thông tin tài chính tự nguyện được tác giả sử dụng trong luận án để khảo sát thực trạng CBTT tự nguyện được kế thừa từ kết quả nghiên cứu của Phạm Đức Hiếu & Nguyễn Thị Hương Lan (2015)[108]; Đặng Thị Thuý Hằng (2016)[7] và kết quả khảo sát từ phiếu điều tra. Kết quả thống kê mức độ CBTT tài chính tự nguyện được thể hiện trong bảng 2.7.

Bảng 2.5: Thống kê mức độ công bố TTTC tự nguyện theo các nội dung


TT

Chỉ báo

Mức độ CBTT


Mức độ CBTT tài chính tự nguyện

27,89%

1

Thông tin công bố tự nguyện về tài sản.

7,1%

2

Thông tin công bố tự nguyện về doanh thu.

28,6%

3

Thông tin công bố tự nguyện về chi phí.

1,85%

4

Thông tin công bố tự nguyện về lợi nhuận.

26,55%

5

Thông tin công bố tự nguyện về các chỉ số phân tích tài chính.

58,43%

6

Thông tin dự báo về doanh thu trong năm tới.

32,61%

7

Thông tin dự báo về lợi nhuận trong năm tới.

32,15%

8

Thông tin dự báo về sản lượng sản xuất trong năm tới.

30,67%

9

Thông tin dự báo về sản lượng tiêu thụ trong năm tới.

31,8%

10

Thông tin dự báo về các rủi ro tài chính trong năm tới.

1,15%

11

Thông tin dự báo chi phí R&D trong năm tới.

3,21%

12

Thông tin dự báo dòng tiền trong năm tới.

0%

13

Phân tích về tài sản.

12,41%

14

Phân tích vốn chủ sở hữu.

20,06%

15

Phân tích lợi nhuận.

25,11%

16

Phân tích doanh số và doanh thu.

32,91%

17

Phân tích chi phí hoạt động.

17,66%

18

Phân tích chi phí quản lý doanh nghiệp.

18,34%

Nguồn: tác giả tổng hợp

Mức độ công bố TTTC tự nguyện đạt 27,89% là một tỷ lệ không cao, cho thấy các DNPTCNY chưa thực sự quan tâm đến việc công bố các thông tin bổ sung ngoài thông tin bắt buộc. Mức độ công bố TTTC tự nguyện về tài sản đạt 7,1% do thông tin tự nguyện về nội dung này chủ yếu tập trung về giá trị hợp lý và giá thị trường của tài sản. Đây là một nội dung mới, căn cứ pháp lý, tài liệu hướng dẫn chưa đầy đủ nên không có đủ cơ sở để xác định giá trị. Hơn nữa thị trường hàng hoá của Việt Nam chưa phát triển nên việc xác định giá trị tài sản theo giá thị trường gặp nhiều khó khăn. Sự quan tâm của nhà đầu tư đến thông tin giá trị hợp lý ngày càng tăng thể hiện sự cần thiết


của việc ghi nhận tài sản theo giá thị trường hơn ghi nhận theo giá gốc trên BCTC như hiện nay. Theo tìm hiểu của tác giả, một số nguyên nhân làm cho mức độ CBTT tự nguyện của nội dung này thấp là do cơ sở pháp lý của Việt Nam về vấn đề này còn rất nhiều hạn chế. Cụ thể :

Thứ nhất là khái niệm về GTHL trong các văn bản pháp lý không thống nhất, bên cạnh đó không có sự giải thích thuật ngữ trong khái niệm, gây khó hiểu cho người đọc.

Thứ hai, các quy định về kế toán GTHL trong hệ thống CMKT còn rất hạn chế và mới dừng lại ở việc sử dụng GTHL để ghi nhận ban đầu thay cho giá gốc.

Thứ ba, chưa có chuẩn mực nào qui định về đo lường GTHL ngoại trừ đoạn 24 của VAS04 - TSCĐ vô hình có đề cập đến phương pháp xác định GTHL của TSCĐ vô hình.

Thứ tư, Việt Nam chưa có chuẩn mực kế toán quy định về suy giảm giá trị của tài sản như chuẩn mực kế toán quốc tế.

Thứ năm, nội dung quy định trong thông tư số 210/2009/TT-BTC không được toàn diện như quy định của IFRS. Theo IFRS 7 cần công bố những thông tin về phương pháp, kỹ thuật định giá và trường hợp không công bố giá trị hợp lý… nhưng trong thông tư 210/2009/TT-BTC không có quy định tương đương. Vì vậy, trong tất cả các chỉ tiêu liên quan đến trình bày thông tin theo giá trị hợp lý, DNPTCNY đều đưa ra lý do là chưa có hướng dẫn cụ thể từ BTC nên không có cơ sở công bố.

Mức độ CBTT tự nguyện về doanh thu đạt 28,6% thấp hơn nhiều so với thông tin bắt buộc trong nội dung này. Qua khảo sát thực tế thì thông tin này được công bố rất sơ sài, thường là số liệu kế hoạch của năm liền kề mà không có sự so sánh, phân tích đánh giá hay có sự trình bày về cơ sở xây dựng chỉ tiêu kế hoạch đó. Mức độ CBTT tự nguyện về lợi nhuận đạt 26,55%. CBTT tự nguyện về chi phí đạt thấp nhất với tỷ lệ 1,85%.

CBTT về các chỉ số phân tích tài chính đạt 58,43%. Đây là các chỉ tiêu phân tích cơ bản, được tính toán dựa trên số liệu có sẵn trên BCTC của doanh nghiệp nên khi doanh nghiệp lựa chọn CBTT này cũng không làm phát sinh thêm nhiều chi phí thu thập thông tin. Tuy nhiên các số liệu công bố chưa được doanh nghiệp so sánh, phân tích mà chỉ phản ánh số liệu đạt được của từng năm nên không thấy được mức độ tăng giảm, biến động của các chỉ tiêu này qua các năm.


Thông tin dự báo là loại thông tin phản ánh xu hướng, khả năng mà doanh nghiệp có thể đạt được trong tương lai. Thông tin dự báo thực chất là thông tin tự nguyện mà DNPTCNY có thể lựa chọn công bố hoặc không công bố. Mặc dù thông tin dự báo là nội dung quan trọng mà các nhà đầu tư quan tâm tuy nhiên kết quả phỏng vấn của các chuyên gia cho biết đây là các chỉ tiêu “khá nhạy cảm” mang tính bí mật và lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp nên nhiều doanh nghiệp sẽ hạn chế công bố, đặc biệt khi các văn bản quy phạm pháp luật không quy định đối với các loại thông tin này vì vậy tỷ lệ công bố đối với loại thông tin này còn thấp, đặc biệt thông tin dự báo dòng tiền trong năm tới không được DNPTCNY nào công bố. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 21 về trình bày TTTC có đề cập đến khả năng dự báo của các TTTC được cung cấp trên các BCTC nhưng không có bất cứ hướng dẫn hay gợi ý cụ thể về các TTTC dự báo nên công bố. TT155/2015-BTC về trình bày BCTN có một số nội dung đề cập đến thông tin dự báo nhưng mức độ yêu cầu rất chung chung như trình bày kế hoạch kinh doanh, chiến lược phát triển hay một số rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, mức độ công bố TTTC dự báo rất thấp, thấp nhất trong tất cả các chỉ số CBTT. Ngoài ra, các thông tin dự báo còn chưa thực sự được các DNPTCNY quan tâm do tính phức tạp của nó và phụ thuộc khá lớn vào, khả năng, trình độ của người thực hiện công tác dự báo (Nguyễn Thanh Hiếu, 2015)[13].

Thông tin về kết quả doanh thu và lợi nhuận là loại thông tin cơ bản mà bất kỳ nhà đầu tư nào cũng quan tâm và được tìm kiếm đầu tiên khi xem BCTC vì vậy thông tin dự báo của doanh thu và lợi nhuận đạt trên 30% DNPTCNY công bố, thông tin dự báo về sản lượng sản xuất, sản lượng tiêu thụ cũng được công bố với tỷ lệ tương đương. Tuy nhiên, nội dung công bố đối với loại thông tin này còn sơ sài, thường chỉ công bố duy nhất số liệu kế hoạch của năm liền kề mà không có phân tích đánh giá, so sánh qua các năm cũng như trình bày nguyên nhân, căn cứ xác định chỉ tiêu đó.

Mức độ CBTT dự báo rủi ro tài chính trong năm tới chỉ đạt 1,15% là do Thông tư 210/2009/TT-BTC chưa quy định cụ thể 2 vấn đề quan trọng là ghi nhận và xác định công cụ tài chính theo giá trị hợp lý cho phù hợp với từng loại công cụ tài chính theo IAS số 39 nên việc thực hiện của DNPTCNY còn hạn chế. Không chỉ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/03/2023