Hoàn Thiện Công Tác Quản Lý Giám Sát Hoạt Động Công Bố Thông Tin Tài Chính Trên Ttck

Thứ tư, cần có quy định làm cơ sở pháp lý để xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá tính minh bạch trong hoạt động CBTT của DNPTCNY và chính thức thừa nhận tính pháp lý của hoạt động xếp hạng mức độ CBTT, xếp hạng chất lượng BCTN trên TTCK. Bộ chỉ số đánh giá có thể dựa trên kinh nghiệm của các nước trên thế giới và thực tiễn hoat động của TTCK Việt Nam. Hoạt động đánh giá, xếp hạng có thể được thực hiện bởi một tổ chức độc lập hoặc một hội đồng độc lập. Việc xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá tính minh bạch và tổ chức thực hiện đánh giá là cơ sở quan trọng để đánh giá chuẩn xác và công bằng hơn mức độ CBTT nói chung và công bố TTTC nói riêng của các DNPTCNY.

3.3.1.2. Hoàn thiện công tác quản lý giám sát hoạt động công bố thông tin tài chính trên TTCK

Để tăng cường chất lượng hoạt động giám sát thị trường nói chung và hoạt động CBTT nói chung cần quan tâm đến các vấn đề sau.

Xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ thông tin giữa UBCKNN với các Bộ ngành liên quan, với các SGDCK, Trung tâm Lưu ký chứng khoán, các công ty chứng khoán, nhà đầu tư, các ngân hàng trong triển khai công tác giám sát giao dịch. Mặc dù theo quyết định số 689/QĐ-UBCK ngày 31/8/2012 về việc ban hành Quy chế phối hợp giữa các đơn vị thuộc UBCKNN với SGDCK và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán nhưng sự phối hợp này chưa bao hàm đủ các đối tượng có liên quan trên TTCK bởi vì trên TTCK vẫn còn các tổ chức trung gian như công ty chứng khoán và ngân hàng cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác giám sát. Họ là các đơn vị nắm rõ nhất các thông tin và trực tiếp quản lý khách hàng của mình trên TTCK hơn nữa đây cũng là nơi đầu tiên phát sinh giao dịch vì vậy trong quy chế phối hợp cần thiết phải bổ sung các công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại để thực hiện triển khai công tác giám sát giao dịch một cách có hiệu quả hơn.

Hiện đại hóa, điện tử hóa hạ tầng công nghệ và đào tạo nhân lực cho công tác giám sát và thanh tra xử lý vi phạm. Hiện tại, UBCKNN đã bước đầu triển khai một số hệ thống hỗ trợ cho công tác giám sát, như: MSS (giám sát giao dịch), IDS (công bố thông thông tin) tuy nhiên cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống công nghệ giám sát, kết nối dữ liệu với các SGDCK và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán để tăng cường quản lý DNPTCNY, tổ chức kinh doanh chứng khoán, … Từ đó, xây dựng hoàn

chỉnh hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác giám sát, thay thế cho công tác giám sát thủ công. Cán bộ tham gia vào hoạt động giám sát cần phải nâng cao năng lực giám sát, nâng cao các kỹ năng chuyên môn về phân tích, xử lý dữ liệu; kỹ năng tiếp xúc với các đối tượng giám sát thuộc nhiều thành phần khác nhau; cũng như khả năng vận hành hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho công tác giám sát.

Tăng cường, bổ sung quyền cho cơ quan quản lý giám sát hoạt động của TTCK trong công tác giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm. Mặc dù một số hành vi vi phạm đã được lượng hóa và có chế tài xử lý hình sự để đảm bảo tính răn đe song với nhiều vi phạm UBCKNN lại không đủ thẩm quyền để tham gia xử lý. Do đó, cần cân nhắc xem xét đến khả năng tạo ra một cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa UBCKNN, công an và tòa án để giải quyết, xử lý vi phạm.

3.3.2. Giải pháp hoàn thiện nội dung công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên

3.3.2.1. Hoàn thiện nội dung báo cáo thường niên

Báo cáo của Ban giám đốc trong BCTN được nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất bởi vì trong các báo này BGĐ phải đưa ra các ý kiến phân tích đánh giá trên mọi mặt hoạt động của công ty cũng như những ý kiến giải trình về những kết quả không đạt được như kế hoạch đã đề ra trong Đại hội đồng cổ đông. Theo thực trạng đã được đề cập ở chương 2 cho thấy mức độ CBTT của nội dung này còn rất hạn chế và chủ yếu là đưa ra các nhận định chung chung mà chưa có số liệu so sánh với kế hoạch để đánh giá. Vì vậy, cần quy định cụ thể mẫu biểu và chỉ tiêu phân tích trong báo cáo của BGĐ làm căn cứ đưa ra nhận xét đánh giá về tình hình thực hiện kế hoạch để đảm bảo phản ánh một cách khái quát nhất tình hình tài chính, kết quả hoạt động của doanh nghiệp như vậy mới có thể tránh được hiện tượng các doanh nghiệp chỉ lựa chọn một vài chỉ tiêu tối thiểu đạt kết quả tốt để công bố mà bỏ qua các thông tin không tích cực. Khi công bố các TTTC cần kết hợp sử dụng phương pháp so sánh để thấy được sự biến động của chỉ tiêu, giúp người sử dụng thông tin dễ dàng đối chiếu kết quả thực hiện với phần phân tích đánh giá của BGĐ. Bảng công bố TTTC trong báo cáo của BGĐ được NCS đề xuất tại phụ lục 30.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 174 trang tài liệu này.

Nội dung kế hoạch phát triển là những TTTC mang tính chất dự báo về những kết quả mà doanh nghiệp kỳ vọng đạt được trong tương lai. Tuy nhiên, trong

thực tế các thông tin dự báo luôn tồn tại những yếu tố không chắc chắn vì vậy đối với mỗi thông tin dự báo đưa ra cần sắp xếp tương ứng với từng giả định có thể xảy ra theo từng mức độ như (i) thuận lợi; (ii) bình thường; (iii) khó khăn. Chẳng hạn, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp có thể không tăng trưởng như dự kiến do xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới, do hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kém hiệu quả hoặc do các điều kiện tự nhiên khác như thiên tai, dịch bệnh… Ngược lại, cũng có thể doanh thu của doanh nghiệp tăng trưởng mạnh do những điều kiện thuận lợi trên thị trường như là sản phẩm mới của doanh nghiệp có ưu thế vượt trội so với các sản phẩm khác cùng loại, doanh nghiệp cải tiến quy trình sản xuất làm cho chi phí sản xuất giảm, doanh nghiệp thành công trong chiến dịch quảng bá sản phẩm mới… Vì vậy, khi công bố TTTC dự báo, doanh nghiệp có thể đưa ra các giả định khác nhau tương ứng với từng TTTC trong từng tình huống cụ thể, các giả định càng chi tiết thì khả năng dự báo của chỉ tiêu tài chính càng chính xác. Luận án đề xuất ba giả định khi công bố TTTC dự báo và được trình bày cụ thể tại phụ lục 31.

Công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 18

3.3.2.2. Hoàn thiện nội dung báo cáo tài chính

Nội dung BCTC của DNPTCNY công bố theo các yêu cầu bắt buộc được quy định cụ thể trong từng chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và thông tư hướng dẫn. Chất lượng thông tin trên BCTC chỉ có thể tăng lên khi các quy định về công bố TTTC có sự phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế tức là các TTTC công bố sẽ phản ánh rõ ràng hơn, đúng bản chất hơn kết quả hoạt động của doanh nghiệp.

Theo quyết định 345/QĐ-BTC ngày 16/3/2020 về việc phê duyệt đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam thành 2 giai đoạn là tự nguyện áp dụng IFRS (từ năm 2022 đến năm 2025) và bắt buộc áp dụng IFRS (sau năm 2025) đối với

(i) BCTC hợp nhất của công ty mẹ của là tập đoàn kinh tế Nhà nước quy mô lớn hoặc có các khoản vay được tài trợ bởi các định chế tài chính quốc tế; công ty mẹ là công ty niêm yết; công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ chưa niêm yết và các công ty mẹ khác và (ii) BCTC riêng của các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là công ty con của công ty mẹ ở nước ngoài.

Các doanh nghiệp còn lại thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế hoạt động tại Việt Nam, trừ các doanh nghiệp áp dụng IFRS hoặc doanh nghiệp siêu nhỏ áp dụng chế độ kế toán riêng sẽ triển khai áp dụng VFRS từ năm 2025 theo nguyên

tắc tiếp thu tối đa thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, nhu cầu doanh nghiệp, đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực thiện.

Như vậy, lộ trình áp dụng IFRS hoặc VFRS đối với từng đối tượng đã được quy định rất cụ thể. Thời gian áp dụng lộ trình này cũng không còn quá dài và đây cũng là một xu thế hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất giải pháp cho 2 nhóm DNPTCNY đó là nhóm DNPTCNY áp dụng IFRS và nhóm DNPTCNY áp dụng VFRS trong CBTT trên BCTC.

Nhóm 1: Các DNPTCNY áp dụng IFRS trình bày và công bố thông tin tài chính

Theo kết quả khảo sát trong chương 2 có thể thấy phần lớn các DNPTCNY hiện nay vẫn đang lập BCTC theo VAS và một số DNPTCNY mới bắt đầu tìm hiểu IFRS để chuẩn bị cho lần chuyển đổi BCTC theo IFRS lần đầu tiên. Vì vậy theo NCS, nhóm DNPTCNY này cần có một quá trình chuẩn bị đầy đủ từ việc xây dựng chiến lược và ngân sách; đào tạo nguồn nhân lực; tổ chức bộ máy kế toán và xây dựng quy chế phối hợp giữa các bộ phận; xây dựng hệ thống CNTT; xây dựng cơ sở hạ tầng dữ liệu; xây dựng cơ chế chuyển đổi BTCT từ VAS sang IFRS; chuẩn bị nền tảng kỹ thuật cho việc lập và trình bày BCTC theo IFRS. Cụ thể từng nhóm giải pháp được trình bày như sau.

1. Xây dựng chiến lược và ngân sách

Theo kinh nghiệm của các doanh nghiệp đã áp dụng IFRS, giai đoạn chuẩn bị là thời gian để Bộ Tài chính tiến hành biên soạn và đưa ra hướng dẫn về IFRS bằng tiếng Việt mà chưa tính đến thời gian để các DNPTCNY tìm hiểu về IFRS hay chuẩn bị tuyển dụng và đào tạo nhân sự về IFRS. Trong khi đó, quá trình các doanh nghiệp triển khai áp dụng IFRS lần đầu tiên phải mất ít nhất từ 2-3 năm cho công tác đào tạo nhân sự và chuẩn bị số liệu cho BCTC lập theo IFRS lần đầu tiên. Khối lượng công việc mà DN phải triển khai để áp dụng IFRS trong giai đoạn này rất lớn thêm vào đó theo yêu cầu của IFRS1, DN phải áp dụng nhất quán các chính sách kế toán trong BCTC theo IFRS ngay lần đầu tiên áp dụng. Như vậy, nếu một doanh nghiệp quyết định tự nguyện áp dụng IFRS lần đầu tiên cho năm kết thúc vào ngày 31/12/2023 thì quá trình chuyển đổi sẽ phải bắt đầu từ ngày 1/1/2022.

Theo quyết định số 345/QĐ-BTC giai đoạn chuẩn bị sẽ diễn ra từ năm 2020 đến năm 2021, sau đó giai đoạn áp dụng tự nguyện IFRS từ năm 2022 đến năm

2025 và giai đoạn bắt buộc áp dụng IFRS từ sau năm 2025. Như vậy, có nghĩa là doanh nghiệp hoàn toàn có thể chủ động quyết định thời gian bắt đầu áp dụng IFRS vì vậy điều đầu tiên cần làm là doanh nghiệp phải xác định nhu cầu áp dụng IFRS của mình trong thời gian tự nguyện hay trong thời gian bắt buộc áp dụng theo quy định của BTC. Căn cứ vào nhu cầu đã được xác định, doanh nghiệp cần lên phương án, lộ trình cụ thể cho việc áp dụng và CBTT về lộ trình, phương án áp dụng để toàn thể CBCNV và các bộ phận khác trong doanh nghiệp cùng biết để thực hiện triển khai. Doanh nghiệp cần thông báo cho Bộ Tài chính trước khi áp dụng tự nguyện.

Doanh nghiệp cần thiết lập một đội dự án chuyển đổi BCTC sang IFRS trong đó người lãnh đạo dự án phải là một trong những thành viên của ban lãnh đạo doanh nghiệp bởi vì ban lãnh đạo doanh nghiệp là người xác định nhu cầu áp dụng IFRS của DN. Ngoài ra, đội dự án còn cần có sự tham gia của các phòng ban trong DN như kế toán, kinh doanh, pháp chế, công nghệ thông tin để tạo ra sự tương tác và phối hợp tích cực giữa các phòng ban khác nhau trong doanh nghiệp nằm tối ưu hoá việc thu thập các thông tin cần thiết cho việc thiết lập và trình bày BCTC.

Việc triển khai áp dụng IFRS là một nội dung rất khó không chỉ ở các nước đang phát triển như Việt Nam mà cả ở các nước phát triển vì nó không chỉ liên quan đến nhiều chuẩn mực mới mà còn đòi hỏi sự đánh giá chủ quan trong từng trường hợp cụ thể chứ không phải theo hướng tuân thủ luật lệ như VAS. Vì vậy, DN cần thiết lập kênh thông tin với cơ quan hoạch định chính sách, công ty kiểm toán, hội nghề nghiệp, nhà tư vấn để thường xuyên cập nhật các tài liệu hướng dẫn, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng để hiểu được bản chất của từng chuẩn mực trong quá trình áp dụng.

Các doanh nghiệp có quy mô lớn, có nhiều công ty con cần xây dựng chính sách kế toán rõ ràng, nhất quán giữa công ty mẹ và các công ty con để phân định ranh giới giữa BCTC và báo cáo thuế, báo cáo quản trị nội bộ.

DN cần xây dựng ngân sách cho từng công việc để đảm bảo có nguồn tài chính phục vụ quá trình triển khai bởi vì khi áp dụng IFRS sẽ phát sinh chi phí lớn do DN phải duy trì BCTC tuân thủ cùng lúc hai hệ thống chuẩn mực VAS, IFRS và thay đổi trình bày BCTC, hệ thống kế toán. Ngoài ra, doanh nghiệp sẽ tốn thêm các chi

phí trong việc sử dụng các dịch vụ hỗ trợ của công ty tư vấn, công ty kiểm toán do có thể nguồn nhân lực của DN chưa đáp ứng được ngay trong quá trình chuyển đổi.

2. Đào tạo nguồn nhân lực

Quá trình áp dụng IFRS phụ thuộc rất lớn và nguồn nhân lực của DN. Nguồn nhân lực ở đây không chỉ giới hạn ở đội ngũ các nhân viên kế toán của DN mà bao gồm cả lãnh đạo doanh nghiệp vì họ là người chịu trách nhiệm phê duyệt BCTC. Hơn nữa, do nguồn TTTC được sử dụng để công bố trên BCTC, BCTN của DNPTCNY được tập hợp từ nghiều bộ phận khác nhau như kế toán, tài chính, kinh doanh, quản lý vì vậy các DN cần phải có kế hoạch xây dựng nguồn nhân lực chủ chốt cho từng bộ phận có liên quan một cách kịp thời, bài bản, lâu dài và liên tục để có thể cùng tham gia vào dự án. Ngoài ra, các nhân sự được phân công trách nhiệm triển khai IFRS cũng cần có trình độ tiếng Anh tốt để có thể tự mình nghiên cứu các quy định và diễn giải của IFRS trong trường hợp các hướng dẫn IFRS bằng tiếng Việt chưa được ban hành một cách đầy đủ. DN cần tận dụng các nguồn kiến thức, sự hiểu biết và tư vấn hỗ trợ từ các công ty kiểm toán, các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức nghề nghiệp và các tổ chức giáo dục khác để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực…

3. Tổ chức bộ máy kế toán và xây dựng quy chế phối hợp giữa các bộ phận

Theo QĐ 345/QĐ-BTC, quá trình tự nguyện áp dụng IFRS được thực hiện ở công ty mẹ niêm yết điều này có nghĩa là các công ty con, công ty liên kết sẽ phải lập báo cáo cho mục đích hợp nhất của công ty mẹ theo IFRS. Do đó, các DNPTCNY cần thực hiện đánh giá tác động của việc chuyển đổi sang IFRS ở tất cả các đơn vị trong tập đoàn có thể ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC hợp nhất của công ty mẹ. Cần phải xem xét đến việc tái cấu trúc một cách phù hợp, thông suốt từ công ty mẹ đến công ty con và các đơn vị trực thuộc khác. Trong mỗi công ty con và các đơn vị trực thuộc cần phải bố trí nhân lực phụ trách IFRS để đảm bảo sự kết nối theo các cấp; các bộ phận có liên quan như bộ phận tài chính, bán hàng, kinh doanh; cần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với bộ phận kế toán để đảm bảo cung cấp thông tin về mô hình kinh doanh, hợp đồng kinh tế, dữ liệu tài chính. DN cần phát huy vai trò của bộ phận kiểm toán nội bộ, tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, soát xét các thông tin, dữ liệu. Đặc biệt, các dữ liệu cần phải được sắp xếp, lữu trữ khoa học

theo hệ thống bản in và file lưu trữ để sẵn sàng giải trình với cơ quan quản lý khi có yêu cầu.

4. Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin

Việc áp dụng IFRS đòi hỏi hệ thống CNTT hiện đại hỗ trợ quá trình thu thập, chuẩn hoá dữ liệu, xử lý dữ liệu cũng như kết nối mọi hoạt động từ tất cả các phòng ban bên trong doanh nghiệp, hoặc các bên liên quan từ bên ngoài doanh nghiệp. Để áp dụng IFRS thì quá trình chuyển đổi là rất quan trọng, quá trình này đòi hỏi phải có sự hợp tác của nhiều bộ phận khác nhau trong doanh nghiệp chứ không chỉ đơn giản là việc thay đổi chính sách kế toán và không phải chỉ có bộ phận kế toán có trách nhiệm trong việc này. Ví dụ, khi có sự thay đổi liên quan đến quy trình kinh doanh của doanh nghiệp bộ phận kế toán cần xác định rõ những thông tin nào cần phải có để phục vụ cho công tác hạch toán kế toán theo IFRS mà hiện thời VAS chưa có, sau đó phối hợp bộ phận bán hàng và bộ phận pháp chế rà soát sửa đổi các điều khoản của hợp đồng bán hàng, mua hàng, hợp đồng vay, thuê tài sản… Từ những thay đổi này, bộ phận CNTT tiến hành sửa đổi, cập nhật các trường dữ liệu, thông tin mới trong hệ thống CNTT của doanh nghiệp để có thể cung cấp đầy đủ dữ liệu cho công tác hạch toán kế toán theo IFRS. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới, trong quá trình chuyển đổi và áp dụng IFRS các DN triển khai IFRS thành công thường gắn liền với việc triển khai hệ thống ERP (Enterprise resource planning – Hoạch định nguồn lực doanh nghiệp) vì vậy để thành công được các DN nên quan tâm đến việc triển khai hệ thống ERP.

5. Xây dựng cơ sở hạ tầng dữ liệu

Dữ liệu là nền tảng, yếu tố quan trọng góp phần quyết định đến chất lượng và sự thành công áp dụng IFRS trong lập BCTC của DN. Vì vậy, DN cần xây dựng cơ sở hạ tầng dữ liệu bao gồm cơ sở dữ liệu tài chính như giá trị hợp lý, đường cong lãi suất, lãi suất cố định, lãi suất thả nổi, lãi suất đồng Việt Nam và ngoại tệ, tỷ giá hối đoái… Ngoài ra, các dữ liệu phi tài chính như thị phần, số lượng khách hàng, mức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ, sản phẩm; tỷ lệ khách hàng quay lại sử dụng dịch vụ; tỷ lệ sản phẩm sai hỏng…. đều là những thông tin cần thiết phục vụ cho lập BCTC theo IFRS.

6. Xây dựng quy trình chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRS

Trong giai đoạn chuyển đổi ban đầu, các doanh nghiệp có 2 phương án lựa chọn.

Phương án 1: Doanh nghiệp lập BCTC theo VAS như trước đây rồi thực hiện các bút toán chuyển đổi sang IFRS bằng phương pháp thủ công để phục vụ cho mục đích lập BCTC theo IFRS. Đây là giải pháp tạm thời trong thời gian đầu bởi vì sự khác biệt giữa VAS và IFRS là rất lớn nên nếu tiếp tục thực hiện phương án này trong thời gian dài sẽ không khả thi khi mà số lượng các giao dịch ngày càng tăng lên.

Phương án 2: Trong giai đoạn chuyển đổi và tự nguyện áp dụng IFRS, DN tiến hành triển khai hệ thống phần mềm kế toán theo IFRS song song với hạch toán kế toán theo VAS. Phương án này sẽ làm doanh nghiệp phát sinh thêm nhiều chi phí do phải chỉnh sửa, bổ sung các tính năng cho phần mềm hiện tại hoặc mua phần mềm mới đáp ứng cả 2 hệ thống kế toán theo VAS và IFRS.

Trong 2 phương án chuyển đổi ở trên, có thể thấy khâu quan trọng nhất để quá trình chuyển đổi được thành công đó là doanh nghiệp phải nhận diện được các giao dịch, các khoản mục trên BCTC có sự khác biệt cơ bản giữa VAS và IFRS để thực hiện chuyển đổi. Vì vậy, DN cần lưu ý cân nhắc thực hiện một số bước cơ bản như sau:

Thứ nhất, phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để làm cơ sở cho việc xây dựng và lựa chọn các mô hình tài chính phù hợp với yêu cầu của IFRS;

Thứ hai, xây dựng hệ thống hồ sơ, dữ liệu mang tính kế thừa bằng cách thu thập dữ liệu, hồ sơ cần thiết để đo lường sự khác biệt giữa VAS và IFRS. Đối với những dữ liệu, hồ sơ được dùng để tính toán và đo lường sự khác biệt giữa VAS và IFRS chưa có sẵn tại thời điểm hiện tại thì doanh nghiệp cần bắt đầu có kế hoạch thay đổi, vận hành các quy trình nội bộ một cách có hiệu quả hơn, liên kết chặt chẽ các phòng ban, thực hiện thu thập và lưu trữ những dữ liệu này để đảm bảo đến thời điểm áp dụng IFRS lần đầu tiên doanh nghiệp sẽ có đầy đủ dữ liệu phục vụ cho việc chuyển đổi.

Thứ ba, doanh nghiệp cần xây dựng bộ quy tắc chuyển đổi BCTC với các hướng dẫn cụ thể phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như lựa chọn các chính sách, ước tính kế toán và các mô hình tài chính theo yêu cầu IFRS; xây dựng, thiết kế hệ thống tài khoản, các biểu mẫu và công thức tính toán những khác biệt giữa VAS và IFRS cho từng khoản mục, giao dịch phát sinh; hình thành các bút toán kế toán điều chỉnh sự khác biệt và phản ánh lên BCTC.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/03/2023