Học sinh bỏ học có thể chia ra làm hai loại là bỏ học “tích cực” và bỏ học “tiêu cực”. Bỏ học “tích cực” nếu học sinh bỏ học để đi học nghề hoặc tiếp tục học bổ túc; bỏ học “tiêu cực” nếu học sinh bỏ học để đi chơi la cà, bám vào cha mẹ, phá phách xóm giềng… Học sinh bỏ học “tiêu cực” có thể là đội quân “trù bị” của những người nghiện ngập ma tuý và tệ nạn xã hội. Dù cho học sinh bỏ học “tích cực” hay “tiêu cực” cũng gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguồn nhân lực, đến cộng đồng và xã hội.
Một trong các yêu cầu cơ bản đối với quá trình dạy học nói riêng, quá trình giáo dục nói chung là phải đảm bảo cho mỗi học sinh được học trọn vẹn bậc học. Nhưng thực tế do nhiều nguyên nhân tác động, học sinh bỏ học không hoàn thành được hết bậc học, thậm chí có em bỏ học ngay từ lớp 6. Đây là hiện tượng không bình thường, bởi vì các em còn quá nhỏ, mới hơn mười tuổi, tương lai các em sẽ ra sao? Các em sẽ làm được những gì với mớ kiến thức không trọn vẹn đó. Xét sâu xa hơn, việc bỏ học bất thường sẽ gây xáo trộn về mặt tâm lý của học sinh đang còn đi học, gây hậu quả xấu cho việc phổ cập GD THCS, làm giảm niềm tin của xã hội vào nhà trường, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống tương lai.
Bác Hồ đã khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Đúng vậy, khi học sinh bỏ học tăng sẽ làm tăng thêm số lượng người thất học, mù chữ gây ra nhiều hậu quả cho nền kinh tế và xã hội. Tình trạng bỏ học là một trong những nguyên nhân làm cho nguồn nhân lực kém chất lượng; mặc dù số học sinh bỏ học không nhiều nhưng nếu tình trạng này không được ngăn chặn kịp thời thì số học sinh bỏ học sẽ ngày càng gia tăng theo các năm, đồng nghĩa với nguồn nhân lực chuyên môn kém, trình độ nhận thức thấp tăng lên qua từng năm và nguồn nhân lực ngày càng kém chất lượng trong khi đòi hỏi của “kỷ nguyên tri thức” ngày càng cao. Do đó, để khắc phục tình trạng này
không chỉ là vấn đề của các cá nhân mà nó đòi hỏi phải có sự quan tâm của các cấp, các ngành và toàn thể xã hội.
Bỏ học của học sinh THCS là trường hợp học sinh bỏ học trước khi hoàn thành bậc THCS trong nhà trường. Mặc dù ở độ tuổi THCS, các em chưa phải là thanh niên, nhưng các em sẽ lớn lên, sẽ trưởng thành, sẽ là chủ nước nhà. Vậy các em sẽ làm cho nước nhà thịnh hay suy với khối óc trống rỗng, không kiến thức, không kinh nghiệm; các em không hiểu rằng kiến thức tốt, kinh nghiệm phong phú sẽ là cơ hội cho người nghèo bứt phá, vượt lên phía trước để tiếp cận với những cơ hội có thu nhập cao, để cải thiện cuộc sống.
Bỏ học, thất học và mê tín dị đoan thường hay đi cùng nhau. Chính sự hiểu biết nông cạn đã biến những người thất học thành nạn nhân của những vụ lừa đảo, thành công cụ cho kẻ địch lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc ảnh hưởng đến chính trị, trật tự an ninh của xã hội.
Đồng hành cùng gia đình, nhà trường là cái nôi nuôi dưỡng nhân tài, góp phần hình thành và ổn định nhân cách cho các em học sinh. Đối với các em, nhà trường đóng một vai trò hết sức quan trọng, đây là nơi cung cấp kiến thức khoa học nền tảng, là nơi tạo mọi điều kiện để các em có thể phát triển một cách toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy, nếu không được đến trường hay nói đúng hơn là bỏ học, thì sẽ đem lại những hậu quả khôn lường cho bản thân các em, gia đình và xã hội.
Báo cáo giám sát của Unesco, năm 2008 đã nêu: Việt Nam là một quốc gia có trên một triệu trẻ em trong độ tuổi đi học không đến trường. Đây là một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm, nhất là đối với bậc giáo dục THCS. Bởi, nếu bỏ qua giai đoạn này sẽ ảnh hưởng vô cùng hệ trọng tới bản thân trẻ trong tương lai. Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng đến cơ cấu chất lượng thị trường lao động của đất nước. Dù nguyên nhân bỏ học của các trẻ em xuất phát từ nhân tố chủ quan hay khách quan thì hậu quả mà nó gây ra là rất lớn. Trước tiên
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ sở kinh tế - xã hội của tình trạng học sinh trung học cơ sở bỏ học ở huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình - 2
- Cơ sở kinh tế - xã hội của tình trạng học sinh trung học cơ sở bỏ học ở huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình - 3
- Hiện Tượng Bỏ Học Ở Học Sinh Trung Học Cơ Sở Và Hậu Quả Của Nó
- Kinh Nghiệm Của Các Tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long Trong Việc Khắc Phục Tình Trạng Bỏ Học Của Học Sinh
- Phương Pháp Duy Vật Biện Chứng Và Phương Pháp Duy Vật Lịch
- Thực Trạng Bỏ Học Của Học Sinh Trung Học Cơ Sở Ở Huyện Kỳ Sơn
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
bản thân các em sẽ phải gánh chịu, ngay thời điểm hiện tại các em sẽ bị thiếu hụt một nền tảng tri thức cơ bản cần thiết cho sự phát triển của các em, từ sự mặc cảm, tự ty thua kém bạn bè, không có môi trường để rèn luyện đạo đức… dễ dàng đưa các em đến với những thói hư xấu, những hành vi lệch chuẩn. Hoặc trong một tương lai không xa khi các em trưởng thành, xã hội sẽ đón nhận các em như thế nào khi nền kinh tế đang trong xu thế quốc tế hoá, làm sao các em có thể xin được việc làm trong các ngành phi nông nghiệp khi chưa tốt nghiệp THCS. Và lúc đó, các em sẽ thật sự trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Với những em có hoàn cảnh kinh tế khá giả, bố mẹ có thể bao bọc hoặc lo cho một công việc nào đó nhưng còn những em có hoàn cảnh khó khăn thì sao? Khi không có công ăn việc làm, khó khăn sẽ chồng chất khó khăn và nếu không có bản lĩnh các em sẽ xa vào các tệ nạn xã hội (như trộm cướp, bài bạc, mại dâm….).
Hơn nữa, tình trạng bỏ học ngày nay sẽ là một dấu hiệu của tình trạng bỏ học trong tương lai do có tính liên thế hệ. Có nghĩa là khi bố mẹ thất học hoặc học vấn thấp thì nhiều khả năng con cái của họ cũng sẽ rơi vào tình trạng tương tự, bởi họ không đủ tri thức để hướng dẫn con cái trong việc học và thu nhập của họ cũng không đủ để trang trải cho việc học của con cái vốn đang ngày càng đắt đỏ hơn.
Có thể nói, hậu quả từ việc bỏ học là rất tệ hại mà chúng ta không thể lường hết được. Nó tác động xấu đến sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của các nước nói chung và của địa phương có học sinh bỏ học nói riêng. Nó trở thành gánh nặng đối với gia đình và xã hội. Thậm chí ở những địa phương có tỷ lệ bỏ học đông sẽ xảy ra tình trạng “khủng hoảng cộng đồng”. Vì một số thanh niên ở địa phương không có trí thức kéo theo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, cuộc sống nghèo khó. Do nhận thức hạn chế nên những người này trong tương lai khi lập gia đình rất dễ sinh nhiều con, ảnh hưởng
tới chính sách dân số. Còn sự nghèo khó sẽ dẫn đến con đường tội phạm, làm ăn phi pháp. Và như vậy, xã hội sẽ nằm trong cái vòng “luẩn quẩn” của sự nghèo đói vì học vấn thấp sẽ dẫn tới thu nhập thấp, khi thu nhập thấp thì dẫn tới nghèo đói và nghèo đói thì đầu tư cho việc học hành thấp và như vậy lại trở về với điểm khởi đầu là học vấn thấp. Do đó, tuyệt đối không thể nào xem thường hiện tượng bỏ học.
1.2.3. Nguyên nhân bỏ học của học sinh phổ thông
Để ngăn chặn và khắc phục tình trạng bỏ học của học sinh phổ thông, trước hết phải tìm hiểu và xác định được nguyên nhân của tình trạng này là do đâu? Qua quá trình nghiên cứu và thu thập thông tin, tác giả nhận thấy có rất nhiều nhân tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến việc bỏ học của học sinh, nhưng xét đến cùng thì các nhân tố này vừa đan xen nhau lại vừa có tính độc lập tương đối và là những nguyên nhân chính đưa đến tình trạng bỏ học của học sinh THCS.
Trước hết, nhân tố xã hội và cộng đồng: Trong nền kinh tế thị trường sự phân hóa giàu nghèo làm cho một bộ phận dân cư bị nghèo đi, trở thành nhóm xã hội bên lề do không có cơ hội phát triển. Đây có thể được xem là nguyên nhân chính của tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh khó khăn dẫn đến tình trạng bỏ học. Bên cạnh đó, tình trạng một số trong những sinh viên ra trường, những người có học thức cao vẫn chưa tìm được việc làm phù hợp với chuyên môn được đào tạo. Bệnh duy ý chí vẫn còn trong một số cấp lãnh đạo trong việc đề ra mục tiêu và chính sách giáo dục; đời sống giáo viên vẫn còn nhiều khó khăn… đã tác động đến nhà trường và thông qua đó lại tác động đến học sinh.
Toàn cầu hoá là cơ hội để các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, nhưng bên cạnh đó cũng không tránh được sự du nhập của những văn hoá phẩm đồi trụy làm tha hoá một bộ phận gồm
những người không có tư tưởng kiên định và niềm tin trong sáng. Điều này biến họ thành những kẻ hám lợi, trục lợi từ đối tượng học sinh, dẫn đến việc các em mất lòng tin vào người lớn, vào cộng đồng và xã hội, dẫn đến việc các em bị sa ngã, dẫn đến việc tâm hồn các em bị "nhiễm bẩn". Mất niềm tin đã dẫn các em đến con đường ham chơi, hư hỏng, và đây chính là ngưỡng cửa của bỏ học.
Hơn nữa, ở nhiều nước sự tham gia của cộng đồng và các đoàn thể xã hội trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn còn chưa thường xuyên và rộng khắp do nguồn kinh phí hạn hẹp và không ổn định, cho nên vẫn còn những học sinh phải bỏ học vì nghèo.
Thứ hai, nhân tố từ phía nhà trường: Nhà trường, lớp học là nơi trực tiếp giáo dục trẻ em lứa tuổi học sinh THCS, tiếp thu kiến thức, hình thành nhân cách. Hơn nữa, nhà trường là nơi mang ánh sáng tri thức đến cho cộng đồng, là nơi có nhiệm vụ cao cả là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự phát triển của phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, quá trình đào tạo của nhà trường nói chung và trường THCS nói riêng đang gặp nhiều thách thức, đặc biệt ở một số nghèo, vùng sâu, vùng xa trường học còn quá khó khăn chưa đủ điều kiện nâng cao chất lượng dạy học, không phát huy được tinh thần ham học của các em. Nhiều trường THCS ở vùng cao hết sức nghèo nàn (trường lụp xụp, bàn ghế mục nát…), điều kiện dạy và học nhất là các trang thiết bị phục vụ việc tiếp thu bài giảng (dụng cụ thực hành) hầu như không có nên dẫn đến việc các em cảm thấy chán và xem việc học như là gánh nặng nên không muốn đến lớp. Bên cạnh đó, sự tồn tại của một “nhà trường thứ hai” do tác động của sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, qua đó một loạt các tri thức không hệ thống được truyền tải đến học sinh. Trong khi đó, nhà trường truyền thống có những mặt lạc hậu so với nhà
trường thứ hai này, không đủ sức kế hoạch hoá, điều phối tri thức thiết yếu tới học sinh, một số giáo viên vẫn dùng lối sư phạm quyền uy để thực hiện tiến trình đào tạo, và một bộ phận giáo viên chưa đủ năng lực và phẩm chất,… đã làm phát sinh mâu thuẫn trong quan hệ thầy trò, làm xói mòn truyền thống tôn sư trọng đạo, làm mất đi hình ảnh cao đẹp của người thầy trong niềm tin của học sinh.
Ở nhiều nước, khi đời sống giáo viên còn gặp nhiều khó khăn thì chính điều này có thể đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực như việc dạy thêm, học thêm tràn lan, cộng thêm chương trình học ngày càng khó và càng quá tải đã tạo cơ hội cho một số giáo viên thiếu phẩm chất biến việc dạy thêm thành việc cải thiện thu nhập, trục lợi bằng cách ép buộc học sinh đi học thêm. Dạy thêm, học thêm bị tác động bởi cơ chế thị trường đã trở thành một vấn nạn làm xói mòn quan hệ thiêng liêng của tình thầy trò.
Tất cả những tiêu cực trên đã tác động trực tiếp đến học sinh và hậu quả là các em bỏ học vì chán trường. Tình trạng bỏ học đang ở mức báo động; nhưng một số trường vẫn xem đó là chuyện nhỏ, bởi vì số học sinh bỏ học thường không quá 10% so với số học sinh của nhà trường; còn đối với một số giáo viên chủ nhiệm và một số người trong các bộ phận đoàn thể của trường thì việc bỏ học của học sinh là làm giảm đi gánh nặng cho trường cho lớp, vì họ cho rằng đa số các em bỏ học là vì quá nghèo, quá yếu và quá ngỗ nghịch. Nghiêm trọng hơn là việc chạy theo chất lượng PC GD THCS.
Thứ ba, nhân tố gia đình: Gia đình là tế bào của xã hội, là xã hội thu nhỏ, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng GD nếp sống và hình thành nhân cách. Đồng thời, là môi trường gần gũi của học sinh, những nhân tố tích cực, tiêu cực hàng ngày hàng giờ tác động đến học sinh. Nhận thức hạn hẹp về mục đích học tập, trình độ giáo dục thấp, phương pháp giáo dục của cha mẹ không phù hợp với tâm lý của con cái,
hoàn cảnh sống, nề nếp gia đình… gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em. Bên cạnh đó còn phải kể đến những tác động của xã hội đến gia đình và thông qua gia đình tác động đến học sinh, về mặt này có thể kể đến tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường gây phân hoá xã hội mạnh mẽ làm thay đổi sâu sắc định hướng giá trị của cha mẹ học sinh về việc học của con mình.
Gia đình là chủ thể đầu tiên trong việc thực hiện chăm sóc và giáo dục trẻ em. Nhưng do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ không đủ điều kiện cho con đến trường buộc các em phải bỏ học. Một phần vì bố mẹ phải lo kiếm kế sinh nhai, không có thời gian quan tâm chăm sóc, nhắc nhở các em học hành dẫn đến tình trạng lười học, không muốn đến lớp. Có trường hợp gia đình khó khăn, các em phải bỏ học để ở nhà phụ việc hoặc lao động sớm để phụ bố mẹ trang trải. Tuy nhiên, đây không hẳn là nguyên nhân tuyệt đối vì có những gia đình khó khăn nhưng con em vẫn đến trường và còn học rất giỏi, tình trạng bỏ học còn phụ thuộc vào thái độ của bố mẹ và cá tính của các em. Điều này giải thích tại sao có những gia đình có điều kiện cho con đi học thậm chí là giàu có nhưng con em của họ vẫn không chịu đến lớp mà chỉ thích đi chơi. Hơn nữa, cả gia đình và bản thân các em đều chưa nhận thức được đẩy đủ về giá trị của quá trình học tập đem lại. Hơn nữa, một bộ phận gia đình chuyển nơi ở, đi làm ăn xa nên việc học của các em không được đảm bảo. Đây là một nguyên nhân diễn ra chủ yếu ở miền núi hoặc ở vùng nông thôn vì điều kiện kinh tế ở đây khó khăn nên bố mẹ phải chuyển nơi làm ăn. Trong khi đó con cái đang còn nhỏ, buộc bố mẹ phải cho con đi theo và điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề học tập của học sinh. Nhiều hộ gia đình sau khi chuyển đi cũng tìm cách cho con đi học ở một trường khác nhưng các em vẫn bỏ học vì nhiều lý do: không làm quen được với môi trường mới, không theo kịp bạn bè do việc học bị phân tán trong quá trình gia đình chuyển nơi ở….
Nhưng cũng có nhiều gia đình do hoàn cảnh kinh tế khó khăn và nhiều nguyên nhân khác nên buộc lòng cho con thôi học: không có hộ khẩu, các em không có giấy tờ tuỳ thân (giấy khai sinh), mất học bạ....
Nằm trong xu thế toàn cầu hoá, quy mô gia đình ngày càng thu nhỏ, gia đình một con ngày càng nhiều; chính vì có một con nên gia đình dành cho các em tất cả sự nuông chiều, và mặt trái của việc này là các em trở nên ích kỷ, kém ý chí, thiếu sự quyết đoán và thiếu lòng tin. Hậu quả của việc này là các em trở thành những kẻ khó giáo dục, dễ sa ngã vào cạm bẫy và tệ nạn, ham chơi, đua đòi… và cuối cùng là bỏ học.
Thứ tư, nhân tố xuất phát từ phía bản thân học sinh: học sinh với tư cách là thực thể của xã hội cũng chịu tác động của xã hội, là thành viên của gia đình cũng bị ảnh hưởng của gia đình, là khách thể của quản lý trường học nên cũng bị tác động bởi trường học. Xét cho cùng, học sinh là đối tượng bị nhiều áp lực nhất, áp lực từ môi trường cộng đồng, xã hội, từ thầy cô, gia đình và bè bạn, những áp lực này đã ảnh hưởng đến sự định hướng giá trị vấn đề học tập của học sinh. Đối với những em sinh ra trong những gia đình khó khăn bắt buộc phải bỏ học sớm, nhưng cũng có em từng bỏ học để đi làm với hy vọng “đổi đời”, với những em sinh ra trong gia đình khá giả, nhưng cha mẹ mải mê làm ăn, quản lý con lỏng lẻo, dẫn đến việc các em dễ sa vào việc ham chơi, chán học. Bên cạnh đó, cũng có những học sinh bỏ học vì chán phương pháp dạy cứng, khô khan và chán ngắt của một số giáo viên; cũng như bất mãn, thất vọng về phẩm chất của một số thành viên đứng lớp, cũng có em không đủ sức kham nổi chương trình nặng nề, quá tải. Hơn nữa, sự dụ dỗ lôi kéo của bạn bè đã khiến các em không còn quan tâm đến việc học, chỉ biết chơi suốt ngày và lâu dần trở thành thói quen. Mặt khác, tâm lý của các em đang ở lứa tuổi 10 đến 16, đây là lứa tuổi dễ dao động nhất, nếu như có biện