Đảm Bảo Bình Đẳng Xã Hội Và Giải Quyết Những Khuyết Tật Của Nền Kinh Tế Thị Trường.

đổi mới chính sách tiền tệ, giá cả cho phù hợp với cơ chế thị trường, kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất, ổn định sức mua đồng tiền Việt Nam, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn.

Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng phát huy vai trò trong việc tạo ra các yếu tố kích thích hay kìm hãm sự phát triển của các quan hệ kinh tế theo hướng nhất định. Thông qua các loại công cụ có tính đòn bẩy này, Nhà nước có thể kìm chế lạm phát, khắc phục tính chu kỳ, tạo ra được tính ổn định và phát triển bình thường cho nền kinh tế thị trường. Nhà nước can thiệp vào thị trường trong phạm vi, giới hạn cần thiết và tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường khi sử dụng công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng nhằm khống chế sự biến động bất thường của thị trường và ngăn ngừa những rủi ro, thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân.‌

1.2.3. Xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế.

Xây dựng kết cấu hạ tầng, cung ứng dịch vụ công cộng hỗ trợ cho nền kinh tế được xem là nội dung quan trọng trong chức năng kinh tế của Nhà nước. Kết cấu hạ tầng là toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật nền tảng bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.

Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước xây dựng Chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng và Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, trong đó chiến lược phát triển bao gồm hệ thống những mục tiêu, chính sách và giải pháp cơ bản, có tính chất dài hạn về phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng (gồm cả kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội), bảo đảm thực thi những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng là cụ thể hóa chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng: luận chứng, lựa chọn phương án phát triển và phân bố mạng lưới kết cấu hạ tầng trên các vùng lãnh thổ trong giai đoạn từ 10 đến 20 năm trở lên; cân đối tổng thể giữa các mục tiêu và các điều kiện thực hiện để làm cơ sở cho việc lập các kế hoạch bao gồm: luận chứng về nhu

cầu phát triển và phân bố kết cấu hạ tầng xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; đánh giá, dự báo các yếu tố phát triển; đặc biệt chú trọng yếu tố thị trường và năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập, yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật; luận chứng các phương án phát triển kết cấu hạ tầng trên phạm vi cả nước và các vùng lãnh thổ; luận chứng các giải pháp và tổ chức thực hiện, các công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên.‌

1.2.4. Kiểm tra, giám sát nền kinh tế.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là chủ thể quản lý tối cao thông qua các cơ quan chức năng nhằm điều chỉnh thống nhất các quá trình kinh tế vĩ mô. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, sự điều tiết của Nhà nước chỉ là sự hỗ trợ, điều khiển gián tiếp theo nguyên tắc điều khiển của Nhà nước chỉ hợp lý và cho phép ở đâu mà sự điều khiển của thị trường không hiệu quả. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là chức năng điều tiết của Nhà nước đứng bên trên nền kinh tế, điều khiển từ xa và thả lỏng cho cho thị trường tự do hoạt động mà không giám sát thị trường vận hành theo định hướng của Nhà nước. Do vậy chức năng kiểm tra, giám sát nền kinh tế của Nhà nước là nội dung không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện đại.‌

Kiểm tra, giám sát và điều chỉnh là tổng thể những hoạt động của Nhà nước nhằm kịp thời phát hiện và xử lý những sai sót, ách tắc, đổ vỡ, những khó khăn, vướng mắc cũng như những cơ hội phát triển kinh tế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả và theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

1.2.5. Đảm bảo bình đẳng xã hội và giải quyết những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.

Với tư cách là một hệ thống kinh tế, kinh tế thị trường thể hiện những đặc điểm và tính ưu việt hơn so với hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Về mặt kết cấu, nền kinh tế thị trường bao gồm đa hình thức sở hữu, đa thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển và hợp tác, cạnh tranh lành mạnh. Trong nền kinh tế thị trường, ngoài môi trường kinh tế với

Chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - 4

hệ thống thị trường và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, còn có cả hệ thống pháp luật hướng dẫn và điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế. Pháp luật bảo hộ quyền lợi hợp pháp của chủ thể kinh tế, đồng thời chống lại sự vi phạm và can thiệp tùy tiện từ mọi phía vào hoạt động của các đơn vị kinh tế.

Về mặt hình thức, các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường đều chịu sự điều chỉnh, chi phối của các quy luật hàng hóa - tiền tệ, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị và giá trị thặng dư. Đó chính là cơ chế vận động của nền kinh tế thị trường và thể hiện ưu thế điều tiết thị trường ở chỗ phát huy được tính năng động, sáng tạo của mọi chủ thể kinh tế, nhạy bén, linh hoạt trong việc đáp ứng nhu cầu phong phú và biến động của xã hội, chọn lọc tự nhiên và đào thải những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả với sức mạnh tự mở đường cho mình của các lực lượng kinh tế.

Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng không phải là mô hình kinh tế vạn năng, hoàn hảo và không có khuyết tật. Có thể dễ nhận thấy những biểu hiện của nó là:

- Trong khi kích thích tới mức cao nhất tính năng động, sáng tạo vì mục tiêu lợi nhuận, cơ chế thị trường cũng đồng thời kích thích đầu cơ, làm cho quan hệ cung - cầu, giá cả thị trường không phải bao giờ cũng phản ánh đúng đắn nhu cầu của xã hội. Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến tập trung hóa cao, sinh ra độc quyền, tiêu thủ cạnh tranh.

- Trong kinh tế thị trường xuất hiện tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” dẫn đến phân hóa đời sống dân cư, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp. Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trạng nền kinh tế sa sút.

- Vì mục tiêu lợi ích, các chủ thể kinh tế sử dụng bừa bãi và tàn phá các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái. Đó là dấu hiệu của sự phát triển không bền vững.

- Trong nền kinh tế còn tồn tại những ngành nghề có mức lợi nhuận thấp, vốn đầu tư lớn, kém cạnh tranh nhưng lại rất cần cho sự ổn định phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội như y tế, giáo dục, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình công cộng...

Những vấn đề đặt ra trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự vận dụng và thay đổi một cách phù hợp chức năng của Nhà nước vào hoạt động kinh tế. Yêu cầu trước mắt đặt ra là cần phải xác định rõ tư cách của Nhà nước là người quản lý nền kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô. Hoạt động kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh là quyền của chủ thể hoạt động kinh tế. Nhà nước chỉ tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế với tư cách là cơ quan công quyền mà không can thiệp trực tiếp vào các quan hệ thị trường. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - điểm khác biệt với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là phải hạn chế thấp nhất tình trạng người bóc lột người, đảm bảo sự bình đẳng xã hội. Việc phát triển kinh tế không chỉ nhằm mục đích đơn thuần là tăng trưởng kinh tế mà phải lấy mục tiêu tăng trưởng kinh tế làm cơ sở để phát triển toàn diện con người, giải quyết hài hòa những vấn đề kinh tế - xã hội, bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc. Nhà nước thực hiện kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội ngay trong từng chính sách phát triển. Nhà nước giải quyết mối quan hệ lợi ích của các tầng lớp xã hội theo nguyên tắc hiệu suất kinh tế và tăng trưởng, kết hợp với trách nhiệm xã hội nhằm đảm bảo công bằng và ổn định xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế. Đại đa số nhân dân được hưởng lợi từ thành tựu của kinh tế thị trường và phát triển, khuyến khích người dân cống hiến và hưởng thụ tương xứng với thành quả sản xuất kinh doanh. Nhà nước tiến hành đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối, điều tiết thu nhập và hoàn chỉnh chính sách đảm bảo cung ứng các dịch vụ công cộng, thiết yếu, bình đẳng cho người dân về giáo dục, y tế, văn hóa, việc làm... Mặt khác, phát triển kinh tế thị trường để giải

phóng các tiềm năng đất đai, tài nguyên nhưng phải khai thác và sử dụng chúng một cách hợp lý, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững.‌‌

1.3. Quá trình phát triển chức năng kinh tế của Nhà nước Việt Nam

Ở nước ta, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước đã được xác lập và vận động biến đổi ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Đặc biệt là từ 1986 đến nay, quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chức năng kinh tế của Nhà nước lại càng thể hiện rõ nét và biến đổi không ngừng để đáp ứng với những yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

1.3.1. Thời kỳ kế hoạch hóa tập trung

Trong thời kỳ đầu của cách mạng, đặc biệt là trong điều kiện hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh, chức năng kinh tế của Nhà nước được thực hiện dưới phương thức thể hiện sự tập trung cao độ để điều hòa, phân phối các nguồn lực kinh tế vốn rất hạn hẹp, với mục tiêu cuối cùng là nhằm dành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, chức năng của Nhà nước lúc này là cần tăng cường sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Chính phủ Trung ương để thực hiện tốt việc phân cấp quản lý, phát huy tính sáng tạo của các cấp, các ngành. Và thực tế là trong suốt thời gian chống Mỹ cứu nước, chức năng kinh tế của Nhà nước mang nặng xu hướng tập trung, bao cấp. Nhà nước trực tiếp điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch bằng hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh như chỉ tiêu về sản lượng, thu nhập, vốn, lợi nhuận, trích nộp ngân sách, tiêu thụ sản phẩm, chỉ tiêu lãi, giá cả...cho các đơn vị kinh doanh. Nhà nước cung ứng vật tư cho cơ cở và cơ sở phải giao nộp sản phẩm cho Nhà nước.

Với phương thức đó, nền kinh tế được điều khiển một cách tập trung cao độ, việc chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch dễ mắc phải chủ quan, nóng vội. Nhà nước đề ra chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ lại

ôm đồm nhiều chức năng, nhiệm vụ nên phát sinh các nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế, xã hội.

Trước tình hình đó, Trung ương đã ra Nghị quyết lần thứ sáu (khóa IV) vào tháng 9/1979 nghiêm khắc phê phán tình trạng tập trung quan liêu, bảo thủ trong kế hoạch hóa và trong chính sách kinh tế, đề ra phương hướng cải biến chủ trương, chính sách về sản xuất và phân phối, lưu thông. Theo đó, kế hoạch của Nhà nước buộc phải đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế. Một trong những nội dung quan trọng được đổi mới trong kế hoạch hóa lúc đó là: kế hoạch trung ương chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế. Về mặt nhận thức, việc thực hiện kế hoạch được xác định rõ là phải gắn liền với hạch toán kinh doanh. Đối với địa phương, chỉ tiêu pháp lệnh được giao chỉ còn là vật tư, hàng hóa của địa phương giao nộp cho trung ương và của trung ương cung cấp cho địa phương. Công tác kế hoạch hóa được chú ý cải tiến theo hướng mở rộng quyền chủ động sản xuất kinh doanh và tự chủ về tài chính của đơn vị doanh nghiệp, thực hiện xây dựng và tổng hợp kế hoạch từ cơ sở, hợp đồng kinh tế trở thành căn cứ để xây dựng và thực hiện kế hoạch của các đơn vị kết hợp cùng với các biện pháp quản lý hành chính để hướng dẫn, khuyến khích các cơ sở đi vào đúng quỹ đạo chung của kế hoạch nhà nước.

Với những đổi mới về nội dung và phương thức nói trên, lẽ ra nền kinh tế nước ta phải có sự chuyển hướng tích cực và khả năng đạt được những thành tựu kinh tế lớn. Tuy nhiên, do những bước đi chưa đúng, chưa phù hợp với tình hình thực tế, mới dừng lại ở phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, giải pháp thiếu chu đáo, còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng về lý luận cũng như thực tiễn nên không những cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, mà cơ chế tập trung quan liêu bao cấp về cơ bản vẫn chưa được xóa bỏ. Nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng. Từ Hiến pháp 1980, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung được khẳng định với sự độc tôn của

thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời những quy định của Hiến pháp 1980 cũng được triển khai và thực hiện một cách mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội. Chức năng kinh tế của Nhà nước được xác định là Nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch tập trung thống nhất với những đặc trưng cơ bản, đó là :‌

- Nhà nước đóng vai trò là chủ sở hữu duy nhất đối với hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội như đất đai, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các loại tư liệu sản xuất khác.

- Nhà nước là người tổ chức trực tiếp hoạt động kinh tế từ khâu cung ứng vật tư, nguyên liệu, điều hành sản xuất và phân phối sản phẩm. Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế với nước ngoài và thực hiện vai trò quản lý nền kinh tế khép kín trong phạm vi đất nước.

- Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh và các mệnh lệnh hành chính; bảo vệ trật tự kinh tế bằng biện pháp kỷ luật hành chính.

Nhìn chung, Nhà nước vừa là chủ sở hữu, vừa là nhà điều hành trực tiếp mọi hoạt động kinh tế, vừa là cơ quan công quyền đứng ra tổ chức và quản lý nền kinh tế trong nội bộ quốc gia.

Việc duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung trong một thời gian dài là nguyên nhân của nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, kéo theo hậu quả nặng nề của chiến tranh đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày một trầm trọng. Tình hình đó đòi hỏi một cách khách quan nhu cầu đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cũng như đổi mới về vai trò, chức năng kinh tế của Nhà nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã tạo ra bước đột phá và chuyển biến mới trong nền kinh tế nước ta. Trên cơ sở đề ra phương hướng phát triển và đưa đất nước bước vào giai đoạn mới, trong đó xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm.

1.3.2. Thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thể chế hóa đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 1992 ra đời đã khẳng định những thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời xác lập và củng cố chức năng kinh tế mới của Nhà nước. So với thời kỳ kế hoạch hóa tập trung bao cấp, chức năng kinh tế của Nhà nước theo Hiếp pháp 1992 đã chuyển đổi về cơ bản. Sự chuyển đổi đó không bắt nguồn từ mô hình kinh tế nào, không giống bất kỳ một quốc gia nào. Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta đặt dưới sự khởi xướng và lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và được thực hiện từng bước, lấy đổi mới kinh tế làm tiền đề vững chắc cho đổi mới hệ thống chính trị. “Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức và biện pháp phù hợp” [70, 2]. Từ đó, phạm vi và những nội dung hoạt động thể hiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã có những thay đổi căn bản.

Từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đơn thành phần chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng kinh tế của Nhà nước cũng chuyển đổi là Nhà nước thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; Nhà nước thừa nhận quyền tự do kinh doanh, tôn trọng quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; Nhà nước thống nhất quản lý kinh tế đối ngoại, khuyến khích đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; Nhà nước phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích nhà nước; Nhà nước quy định chế độ sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo hộ quyền lợi của người sản xuất, người tiêu dùng và thực hiện chính sách tiết kiệm.

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 01/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí