Về Xây Dựng Chiến Lược, Quy Hoạch, Kế Hoạch Phát Triển Kinh Tế.

Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng là quá trình đổi mới về thể chế và thiết chế nhà nước, thể hiện sự thay đổi về chức năng kinh tế của Nhà nước. Bởi đặc trưng của mỗi mô hình kinh tế ấy đã quy định chức năng kinh tế tương ứng của Nhà nước Việt Nam. Nền kinh tế quốc dân hiện nay không còn là nền kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín nữa mà là nền sản xuất vươn ra thị trường và vận động theo các quy luật kinh tế khách quan và có khả năng tự điều chỉnh rất lớn. Chính vì vậy mà chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có những đặc trưng cơ bản khác với chức năng kinh tế của Nhà nước trong cơ chế kinh tế tập trung, đó là:

- Nhà nước tạo môi trường thuận lợi về quốc phòng, an ninh, chính trị, xã hội, ngoại giao cho hoạt động kinh tế.

- Nhà nước bằng pháp luật quy định tư cách chủ thể, tạo ra khung pháp lý cho các hoạt động kinh tế; ngăn ngừa và chống các yếu tố phản thị trường, phản kinh doanh, định ra các phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh tế và đảm bảo duy trì trật tự kinh tế.

- Nhà nước sử dụng pháp luật là công cụ chủ yếu để đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội, đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo phúc lợi chung cho toàn xã hội, đảm bảo sử dụng khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái.

- Nhà nước thông qua các công cụ như chính sách, tiền tệ, tín dụng...tác động đến nền kinh tế nhằm kiểm soát và hạn chế hậu quả trong các biến động bất lợi của thị trường.

- Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế đất nước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời vẫn đảm bảo giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội.

Có thể nói những đặc trưng trong mỗi mô hình kinh tế đã thể hiện quá trình phát triển về chức năng kinh tế của Nhà nước cũng như khẳng định sự đúng đắn trong đường lối đổi mới ở nước ta. Nếu như Nhà nước tư sản trước đây đóng vai trò “bà đỡ” cho sự ra đời của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thì ở nước ta, Nhà nước Việt Nam chính là “bà đỡ” cho sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, Nhà nước đang tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi, an toàn, vững chắc cho sự vận hành của nền kinh tế, đồng thời chính bản thân Nhà nước cũng đang khắc phục những yếu kém trong thực hiện chức năng của mình để để đảm đương vai trò phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Từ sự phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về chức năng kinh tế của Nhà nước vừa trình bày ở trên, có thể thấy rằng khái niệm về chức năng kinh tế cũng như nội dung chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là vấn đề lý luận phức tạp. Khái niệm về chức năng kinh tế của Nhà nước được nhìn nhận từ các quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nước trong lịch sử. Lịch sử kinh tế cũng như lịch sử nhà nước ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam qua các thời kỳ là quá trình nhằm xác định vai trò kinh tế và đi tìm sự tối ưu trong các chính sách kinh tế của Nhà nước. Và lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ từ phía Nhà nước.

Từ nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau, chức năng kinh tế của Nhà nước được nhìn nhận theo những nội dung khác nhau và đó cũng là cách phân chia chức năng kinh tế thành những chức năng cụ thể, xác định. Chẳng hạn, có quan điểm biểu thị chức năng kinh tế thành những chức năng như: Chức

Chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - 5

năng tối thiểu (cung cấp hàng hóa công cộng, bảo vệ người nghèo), chức năng trung gian (giải quyết tình trạng thông tin không hoàn hảo, điều tiết độc quyền, cung cấp dịch vụ bảo hiểm), chức năng tích cực (phân phối lại, phối hợp hoạt động tư nhân); hoặc có quan điểm lại tiếp cận chức năng kinh tế của Nhà nước từ những giải pháp nhằm hạn chế khuyết tật của thị trường như: Chức năng chống độc quyền bằng biện pháp đánh thuế, chức năng kiểm soát giá cả, chức năng cung cấp hàng hóa công cộng, chức năng giải quyết vấn đề công bằng trong nền kinh tế...Mặc dù còn có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng có thể nói rằng chức năng kinh tế của Nhà nước được xác định là hoạt động cụ thể của Nhà nước làm gì để phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với quan điểm tiếp cận nội dung chức năng kinh tế của Nhà nước từ các công cụ vĩ mô mà Nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế với giải pháp phát triển ổn định của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tác giả đã trình bày nội dung các chức năng kinh tế của nhà nước hiện nay cụ thể là: Chức năng của Nhà nước trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển; Chức năng của Nhà nước trong việc xây dựng hệ thống pháp luật và đổi mới công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô; Chức năng của Nhà nước trong xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế; Chức năng của Nhà nước trong kiểm tra, giám sát nền kinh tế; Chức năng của Nhà nước trong đảm bảo bình đẳng xã hội và giải quyết những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.

Qua những bước phát triển thăng trầm, sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn tất yếu khách quan trong chính sách kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa. Từ đó, chức năng kinh tế của các Nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nhà nước Việt Nam nói riêng cần được nhận thức, xác định một cách đúng đắn và phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM


Quá trình đổi mới chức năng của Nhà nước Việt Nam hơn hai mươi năm qua đã chứng minh sự thay đổi tư duy về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan. Trong đó, quan trọng là sự vận dụng các quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” và quy luật “phân phối theo lao động”. Sự thay đổi đó đã hình thành mô hình kinh tế mới trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đã dần dần trở lại làm đúng chức năng của mình đối với nền kinh tế, đó là: định hướng phát triển, ban hành thể chế nền kinh tế; cung cấp các dịch vụ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; thực hiện tái phân phối đảm bảo gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, duy trì sự ổn định kinh tế - xã hội.‌

2.1. Thực trạng chức năng kinh tế của Nhà nước.

2.1.1. Về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế.

Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung trước đây, vai trò của định hướng chiến lược phát triển kinh tế bị lu mờ trước vai trò mệnh lệnh của kế hoạch Nhà nước. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, vai trò của định hướng phát triển kinh tế - xã hội đã ngày càng được đề cao và thực hiện nghiêm túc bên cạnh việc thu hẹp dần vai trò của kế hoạch pháp lệnh. Công cụ của việc định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước bao gồm: hoạch định chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển, kế hoạch phát triển. Các công cụ này có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau về những vấn đề chung - riêng; tổng thể - bộ phận; định tính - định lượng; dài hạn - trung hạn - ngắn hạn.

Thứ nhất, đối với việc xây dựng chiến lược phát triển, lần đầu tiên tại Việt Nam, hai chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã lần lượt ra đời trong tiến

trình của công cuộc đổi mới. Trong đó gồm: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 10 năm 1991 - 2000; và Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa 10 năm 2001 - 2010.

Một trong những định hướng quan trọng nhất của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế 10 năm 1991 - 2000 là đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong nhiều năm. Do có định hướng đúng trong việc xác định các mục tiêu, công cụ, biện pháp cụ thể, tạo điều kiện cho các ngành, lĩnh vực, tổ chức kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, Nhà nước ta đã thành công trong việc thực hiện về cơ bản mục tiêu thoát khỏi khủng hoảng vào năm 1996. Kết thúc chiến lược này vào năm 2000 thì tổng sản phẩm kinh tế quốc dân (GDP) đã đạt gấp 2,07 lần năm 1991. Tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ chỗ không đáng kể đã đạt mức 27% GDP. Từ một nước nhập khẩu gạo đã trở thành nước xuất khẩu gạo ở tốp đầu của thế giới. Công nghiệp đã ngày càng có tỷ trọng cao trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, đời sống của nhiều bộ phận dân cư được cải thiện đáng kể.

Hiện tại, chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa 10 năm 2001 - 2010 đã dần được hoàn thành. Một trong những định hướng quan trọng của chiến lược này là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Một lần nữa, một định hướng chiến lược đã hoàn toàn xác thực, đi thẳng vào thực chất của tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Định hướng này đang được thực hiện có kết quả, trong đó từ năm 2001 đến 2005 tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế luôn đạt mức năm sau cao hơn năm trước; xuất khẩu đạt tốc độ cao gấp hơn 2,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP; bội chi ngân sách không vượt quá giới hạn an toàn; đời sống của nhân dân ổn định và được nâng lên đáng kể.

Việc hoạch định chiến lược phát triển của Nhà nước trong những năm đổi mới vừa qua đã làm cho nền kinh tế - xã hội ở nước ta được định hướng

dài hạn và xác thực. Những định hướng này so với định hướng “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” lên chủ nghĩa xã hội trong những năm 1976 - 1985 thì rõ ràng là có sự chuyển biến về chất. Trong đó, thay vào những mục tiêu xã hội chủ nghĩa là những mục tiêu quá độ đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng, thoát ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển. Sự chuyển biến về chất này bao hàm trong đó những dung lượng về sự phát triển của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, hay nói cách khác là phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, Nhà nước đã tiến hành đổi mới kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là Nhà nước từ bỏ kế hoạch hóa theo hệ thống sản phẩm vật chất và chuyển sang hệ thống tài khoản quốc gia. Hệ thống sản phẩm vật chất thích hợp với phương thức kế hoạch hóa tập trung, theo đó các mục tiêu kế hoạch, nhiệm vụ kế hoạch, các chỉ tiêu kế hoạch, cân đối kế hoạch...đều được xác định trên cơ sở sản xuất vật chất (không chú trọng giá trị gia tăng), phân phối theo hiện vật (không chú trọng thị trường), tự khép kín (không chú trọng kinh tế đối ngoại). Cùng với quá trình đổi mới, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở hệ thống sản phẩm vật chất đã dần dần được xóa bỏ và thay vào đó là hệ thống tài khoản quốc gia. Theo đó nền kinh tế đã được Nhà nước hoạch định theo các thước đo về giá trị gia tăng, cán cân thương mại, đầu tư nước ngoài, cán cân thanh toán quốc tế, xử lý thâm hụt ngân sách và theo yêu cầu của thị trường.

Theo kế hoạch định hướng, Nhà nước giảm thiểu việc giao chỉ tiêu pháp lệnh cho doanh nghiệp mà để doanh nghiệp tự chủ bố trí kế hoạch sản xuất kinh doanh theo những định hướng phát triển kinh tế - xã hội và thông qua yếu tố tự điều chỉnh của thị trường. Đối với doanh nghiệp nhà nước, việc giao chỉ tiêu pháp lệnh chỉ còn áp dụng đối với một danh mục rất hạn chế có liên quan đến việc sản xuất kinh doanh một số loại hàng hóa, dịch vụ quan

trọng do Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo cung ứng cho nhu cầu phát triển bền vững nền kinh tế như sản xuất và phân phối điện, nước...

Theo cơ chế mới, kế hoạch nhà nước mang tính hướng dẫn và gián tiếp, gắn với hiệu quả và lợi ích kinh tế. Do vậy khuyến khích các đơn vị kinh tế phát huy tính năng động, sáng tạo để làm giàu, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nội dung và hình thức kế hoạch định hướng trong nền kinh tế thị trường gồm nhiều mặt, trong đó có ba vấn đề quan trọng :

- Lấy chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch 5 năm làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch hằng năm.

- Nâng cao chất lượng các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân: cân đối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, cân đối ngân sách nhà nước, cân đối tín dụng và tiền tệ, cân đối ngoại tệ và thanh toán quốc tế, cân đối tổng cung và tổng cầu.

- Coi trọng cả kế hoạch phát triển kinh tế lẫn kế hoạch phát triển xã hội. Một trong những nội dung quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội là xây dựng và đưa vào kế hoạch những dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Chương trình, dự án ở tầm quốc gia được chuyển thành nội dung của kế hoạch cả nước. Mỗi chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều có những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, được hoạch định các nguồn lực, phương tiện để thực hiện. Để phù hợp với tính định hướng của kế hoạch, Nhà nước xác định vai trò và vị trí quyết định trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là kế hoạch 5 năm, trong đó kế hoạch hằng năm là kế hoạch điều hành để thực hiện kế hoạch 5 năm.

Việc xây dựng kế hoạch được tiến hành theo chế độ hai cấp là kế hoạch nhà nước và kế hoạch đơn vị kinh tế cơ sở. Trước đây, kế hoạch hóa được tiến hành qua nhiều tầng nấc, bốn cấp hệ thống quản lý nhà nước đều làm kế hoạch và trong sản xuất kinh doanh, cũng gồm nhiều cấp, tùy theo doanh nghiệp thuộc trung ương hay địa phương quản lý. Hệ thống đó làm cho bộ

máy cồng kềnh, quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch thường vòng vèo, chồng chéo, kém hiệu quả, chia cắt nền kinh tế theo ngành và theo lãnh thổ để quản lý mà thực chất là phân chia quyền sở hữu mọi tài sản và nguồn lực của đất nước. Tình trạng đó đã dẫn đến chỗ vì lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, thậm chí của từng đơn vị kinh tế làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, làm cho nền kinh tế quốc gia mất đi sức bật của một chỉnh thể.

Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các cấp kế hoạch nói trên không còn phù hợp. Nhà nước thực hiện chế độ kế hoạch hóa hai cấp trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó, kế hoạch cấp nhà nước (kế hoạch vĩ mô) là kế hoạch toàn diện về kinh tế xã hội, mang tính tổng quát và định hướng cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đặc biệt chú ý đến các lĩnh vực Nhà nước phải đảm bảo như xây dựng kết cấu hạ tầng, phúc lợi xã hội, xử lý đúng các vấn đề chính trị, quốc phòng, an ninh.... Kế hoạch của các đơn vị kinh tế là kế hoạch hành động, do các đơn vị xây dựng trên cơ sở của kế hoạch nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, các đơn vị kinh tế không thể thụ động ngồi chờ cấp trên giao nhiệm vụ kế hoạch, phân phối vật tư, chỉ định nơi tiêu thụ sản phẩm mà phải chủ động xác định nhu cầu thị trường, các nguồn vốn, vật tư, tiêu thụ sản phẩm...làm căn cứ lập kế hoạch sản xuất kinh doanh; và phương án hoạt động phải phù hợp với cơ chế thị trường đã được điều tiết vĩ mô.

2.1.2. Về đảm bảo môi trường pháp lý và các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.

Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, pháp luật là công cụ quan trọng thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước. Nếu như trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, với cơ chế hành chính quan liêu, sự tồn tại của pháp luật dường như là nhu cầu chủ quan bắt nguồn trực tiếp từ yêu cầu của Nhà nước và được xem là phương tiện trong tay Nhà nước nhằm đẩy mạnh, kích thích, kìm hãm hay xoá bỏ một quan hệ nào đó theo ý chí của Nhà

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 01/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí