www.vneconomy.com. Các nghiên cứu trên mới chỉ sơ khảo phần nào về nội dung của Hiệp định vốn Basel II, do tính mới mẻ của Hiệp định này. Hiện tại, Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, NHNNVN đang chủ trì đề tài cấp ngành Các điều kiện cho ngân hàng Việt Nam áp dụng Hiệp định Basel II, dự kiến đến cuối năm 2006 sẽ nghiệm thu.
Do vậy, có thể khẳng định đây là luận văn thạc sỹ đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về các nội dung của Hiệp định vốn Basel II với ý nghĩa là những chỉ dẫn trong quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM và khả năng áp dụng các chỉ dẫn này vào thực tiễn quản trị rủi ro của NHTM Việt Nam.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở tìm hiểu về các nội dung trong Hiệp định Basel II với tư cách là chuẩn mực về quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM, luận văn phân tích khả năng và chứng minh sự cần thiết phải áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo Basel II tại các NHTM Việt Nam. Luận văn cũng đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả công tác quản trị rủi ro trong các NHTM Việt Nam dựa trên các nội dung của Hiệp định Basel II trong bối cảnh nền kinh tế nói chung và ngành tài chính-ngân hàng Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Làm rõ các vấn đề chung, cơ bản về ngân hàng thương mại, rủi ro và quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM.
Trình bày các nội dung của Hiệp định Basel II với ý nghĩa là các chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM và tình hình áp dụng trên thế giới.
Đánh giá thực trạng quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Chuẩn mực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại theo hiệp định BASEL II và việc áp dụng tại Việt Nam - 1
- Hiệp Định Basel Ii Và Các Chỉ Dẫn Về Chuẩn Mực Quản Trị Rủi Ro Trong Hoạt Động Kinh Doanh Của Nhtm
- Chuẩn mực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại theo hiệp định BASEL II và việc áp dụng tại Việt Nam - 4
- Bê-Ta – Tỷ Lệ Bình Quân Ngành Mức Yêu Cầu Vốn Tối Thiểu So Với Thu Nhập Theo Nhóm Hoạt Động Kinh Doanh
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
Phân tích khả năng áp dụng và đề xuất một số giải pháp ở cấp vĩ mô và vi mô nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam theo các chỉ dẫn của Hiệp định Basel II.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chuẩn mực và thực tiễn công tác quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn xung quanh những chuẩn mực quản trị rủi ro được nêu trong Hiệp định vốn Basel II và thực tiễn công tác quản trị rủi ro hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam từ khi Việt Nam chính thức có hệ thống ngân hàng hai cấp đến nay (1988).
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu biện chứng Mác-Lê nin kết hợp với chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn cũng vận dụng các quan điểm chính trị của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập kinh tế quốc tế, chiến lược phát triển ngành tài chính ngân hàng nằm trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích, tổng hợp, điều tra – thống kê, phương pháp chuyên gia.....
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM và Hiệp định vốn Basel II
Chương II: Tình hình áp dụng Hiệp định Basel II tại một số nước trên thế giới và thực trạng công tác quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam
Chương III: Khả năng áp dụng Hiệp định Basel II vào quản trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam và các giải pháp thực hiện
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HIỆP ĐỊNH BASEL II
1.1. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
1.1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại và Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.1.1 Ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh của NHTM
a. Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế. Nó đặc biệt vì nhiều lý do khác nhau, nhưng lý do quan trọng nhất là loại hàng hoá chủ yếu mà nó kinh doanh là loại hàng hoá đặc biệt: tiền tệ. Trong các ngôn ngữ các nước phương Tây, từ Banque trong tiếng Pháp cổ và Banca trong tiếng Ý có nghĩa là “cái ghế dài” hay “bàn của người đổi tiền”, dùng để chỉ nơi để đổi tiền, thường có bàn đổi tiền và ghế cho khách hàng ngồi trong cửa hiệu tại các trung tâm thương mại [15]. Trong nghĩa Hán Việt, bản thân từ “Ngân hàng” cũng đã nói lên một cách rõ ràng loại hàng hoá mà loại hình tổ chức này kinh doanh là tiền tệ (ngân). Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng được gọi là một loại trung gian tài chính theo nghĩa là đơn vị chuyển những khoản tiết kiệm của tổ chức, cá nhân (có tiền nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian gửi vào ngân hàng để sinh lời hoặc vì mục đích an toàn hoặc để sử dụng các dịch vụ, tiện ích ngân hàng khác) sang cho các cá nhân, đơn vị cần tiền để hoạt động.
Trong nỗ lực xây dựng một khuôn khổ chung cho quản trị hoạt động ngân hàng thương mại, dự thảo Nghị định về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại đang được Chính phủ xây dựng đưa ra một định nghĩa khái quát về
ngân hàng thương mại với nền tảng dựa trên Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng năm 2003 như sau:
“Ngân hàng thương mại là các ngân hàng được thực hiện các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan khác vì mục tiêu tạo ra lợi nhuận khác” [9]. Và để phân loại, dự thảo này quy định “Ngân hàng thương mại gồm ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng trách nhiệm hữu hạn”.
b) Hoạt động kinh doanh của NHTM
Tuỳ vào luật pháp của từng quốc gia và theo từng thời kỳ, NHTM thực hiện các hoạt động kinh doanh với mục đích chủ yếu là tạo ra lợi nhuận. Một cách tổng quát, hoạt động kinh doanh của NHTM là việc cung cấp các “dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về tài chính của khách hàng gồm” [16]:
- Dịch vụ tiền gửi và tiết kiệm
- Cho vay và đầu tư dự án
- Dịch vụ chuyển tiền và thanh toán
- Các dịch vụ tài chính và tư vấn
- Các dịch vụ ngân hàng quốc tế
1.1.1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Có nhiều định nghĩa về rủi ro khác nhau. Đồng thời với nó có nhiều cách phân loại rủi ro khác nhau. Thuật ngữ “rủi ro” (risk) trong kinh tế học và kinh doanh đã được đưa ra từ lâu nhưng cho đến gần đây, với sự phát triển của các ngành khoa học kinh tế lượng và các môn giúp lượng hoá các biến ngẫu nhiên trong hoạt động kinh tế và kinh doanh, “rủi ro” mới trở thành một đối tượng của nghiên cứu và kinh doanh.
Nhìn chung, rủi ro là những vận động không lường trước được của sự vật, hiện tượng và nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Tính “không lường trước được” có thể theo nghĩa khả năng xảy ra, diễn biến và mức độ. Rủi ro thường gắn với tổn thất.
Dưới góc độ hoạt động kinh doanh của NHTM, rủi ro được định nghĩa là những sự thay đổi không lường trước được về giá trị tài sản (gồm tài sản có và tài sản nợ) và các nghĩa vụ khác.[5]
Các phương châm quản trị rủi ro hiện đại được xây dựng trên cơ sở “Không có rủi ro thì không có lợi nhuận”, và “Rủi ro là cái để quản lý, chứ không phải để tránh”.
Thẩm định
Rủi ro
Hình 1.1: Rủi ro càng lớn thì tỷ suất lợi nhuận càng cao
1.1.1.3 Phân loại rủi ro trong hoạt động NHTM
Tất cả các mặt hoạt động của NHTM đều chứa đựng rủi ro, hay những yếu tố không lường trước được có thể gây ra tổn thất cho ngân hàng. Có nhiều cách phân loại rủi ro. Một trong những cách phân loại thông dụng là phân loại thành rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro tác nghiệp và rủi ro khác.[5]
(a) Rủi ro tín dụng
Là rủi ro phát sinh khi khách hàng vay không có khả năng thanh toán các nghĩa vụ trả nợ đầy đủ và đúng hạn theo quy định của hợp đồng tín dụng hoặc các loại thoả thuận khác phát sinh nghĩa vụ thanh toán của khách hàng.
(b) Rủi ro thị trường
Là rủi ro phát sinh do biến động của các yếu tố thị trường gây tổn thất, thiệt hại cho ngân hàng. Các yếu tố thị trường thường là lãi suất và tỷ giá (do vậy, trong nhiều công trình nghiên cứu còn chia thành rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá).
(c) Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản chia thành 2 loại: rủi ro thanh khoản của tài sản và rủi ro thanh khoản về vốn. Rủi ro thanh khoản của tài sản phát sinh do tính thanh khoản của tài sản (tài sản có, tài sản nợ) không thể thực hiện được trong điều kiện nhất
định (ví dụ: tài sản cầm cố, thế chấp là bất động sản; trái phiếu kỳ hạn dài…). Rủi ro thanh khoản về vốn phát sinh khi doanh nghiệp mất khả năng thực hiện các nghĩa vụ thanh toán và phải nhượng bán lại các tài sản đầu tư với giá thấp hơn giá thị trường hoặc giá dự kiến (ví dụ hoạt động chiết khấu trái phiếu của NHTM cho NHTW khi thiếu vốn tiền mặt).
(d) Rủi ro tác nghiệp
Là rủi ro phát sinh do chính con người gây ra hoặc sự cố kỹ thuật, máy móc xảy ra hoặc do quy trình, quy chế, cơ chế không đầy đủ, có sơ hở gây ra tổn thất cho ngân hàng.
(e) Các loại rủi ro khác
Tuỳ vào mục đích quản lý mà ngân hàng có thể xác định các loại rủi ro khác trong hoạt động kinh doanh của mình như: rủi ro pháp lý, rủi ro danh tiếng, rủi ro đạo đức…Trong quản trị ngân hàng hiện đại, các NHTM lớn gần đây đã bắt đầu chú ý đến 1 loại rủi ro mới là rủi ro tập trung tín dụng (credit concentration risk) trong điều kiện hoạt động mua lại và sáp nhập (M&A) đang diễn ra mạnh mẽ.
1.1.2 Quản trị rủi ro trong hoạt động NHTM
1.1.2.1 Nội dung công tác quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM
Quản trị rủi ro là một bộ phận trong công tác quản trị điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của NHTM. Quản trị rủi ro có 2 nội dung chủ yếu:
(a) Đánh giá rủi ro và dự tính tổn thất
NHTM phải đánh giá được mức độ rủi ro cũng như các đặc điểm rủi ro mà ngân hàng mình đang có (thuật ngữ tiếng Anh là Risk profile, trong đó profile có nghĩa là bộ hồ sơ). Trước hết, NHTM phải xác phân loại được những loại rủi ro mà ngân hàng đang phải đối mặt, mức độ của mỗi loại rủi ro đấy.
Để đánh giá được rủi ro của NHTM, một loạt các chỉ số thống kê và số học được xây dựng và sử dụng trong công tác quản trị rủi ro của ngân hàng.
- Mức độ rủi ro (Exposure): là tổng giá trị tài sản có mà ngân hàng coi là có
rủi ro.
- Xác suất khách hàng không trả được nợ (Probability of Default – PD): là
tỷ lệ xác xuất khách hàng nắm giữ tài sản có của ngân hàng không trả được nợ
đúng hạn và đầy đủ. Tỷ lệ này được xác định đối với mỗi tài sản có trong danh mục đầu tư. Hiện tại, để tính được chỉ số này, ngân hàng phải sử dụng tổng thể kết quả tính toán và thống kê tỷ lệ tổn thất tín dụng của ngành và theo từng đối tượng khách hàng và đặc điểm của khoản cho vay.
- Tổn thất trong trường hợp khách hàng không trả được nợ (Loss Given Default – LGD): là mức độ tổn thất đối với ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Một cách đơn giản, LGD được tính bằng trị giá khoản vay (gồm gốc + lãi + chi phí) trừ đi trị giá tài sản đảm bảo khoản vay.
- Tổn thất dự kiến (Expected Loss – EL): là mức tổn thất mà ngân hàng có thể tính toán và dự tính trước được tương ứng với mỗi khoản mục trong danh mục đầu tư. Trong một số trường hợp cụ thể, EL = LGD.
- Tổn thất không dự kiến (Unexpected Loss – UL): là những tổn thất nằm ngoài dự kiến của ngân hàng khi tiến hành phê duyệt khoản vay. Ví dụ: những tổn thất liên quan đến rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá là những biến động của thị trường trong tương lai mà tại thời điểm bắt đầu khoản cho vay, ngân hàng không thể dự đoán trước.
- Giá trị rủi ro (Value At Risk – VAR): là một chỉ số lượng hoá thống kê giá trị thực tế của tài sản sau một khoảng thời gian với độ tin cậy xác định trước (ví dụ: 95%, 99%...).
- Các chỉ số khác.
(b) Kiểm soát và Phòng ngừa rủi ro
Rủi ro được kiểm soát bằng việc thực hiện các thủ tục nằm trong hệ thống KSNB trong các quy trình kinh doanh và hoạt động nhằm giảm thiểu rủi ro. Chi phí cho các thủ tục kiểm soát cao có thể giảm thiểu rủi ro tối đa nhưng hiệu quả lại thấp, ngược lại chi phí cho các thủ tục kiểm soát thấp có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng rủi ro cũng có thể cao. Ban điều hành NHTM phải tìm ra sự cân bằng tối ưu giữa chi phí cho các thủ tục kiểm soát và lợi ích đem lại từ các thủ tục đó, từ đó lựa chọn các thủ tục kiểm soát rủi ro phù hợp.
NHTM thường sử dụng một số phương pháp phòng ngừa rủi ro như (1) dự phòng tổn thất tín dụng – loan loss reserves (provision); (2) vốn an toàn tối thiểu (Capital Adequacy); (3) phòng ngừa rủi ro (Risk Hedging); (4) các phương pháp khác.
1.1.2.2 Các nguyên tắc cơ bản trong quản trị rủi ro
Theo thực tiễn quản trị rủi ro của các NHTM trên thế giới, công tác quản trị rủi ro trong hoạt động của 1 NHTM thường thực hiện theo một số nguyên tắc chủ yếu sau:
- Nguyên tắc chấp nhận rủi ro;
- Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép;
- Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt;
- Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập;
- Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính;
- Nguyên tắc hiệu quả kinh tế;
- Nguyên tắc hợp lý về thời gian;
- Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của Ngân hàng;
- Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép;
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong trình bày các nguyên tắc cơ bản trong quản trị rủi ro đối với ngân hàng thương mại; PGS. TS. Nguyễn Thị Quy trong tác phẩm “Năng lực cạnh tranh của các NHTM trong xu thế hội nhập”, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội 2005 đưa ra 16 nguyên tắc; Uỷ ban Basel (The Basel Committee) trong xuất bản có tên “The Core Principles for Effective Banking Supervision” (Những nguyên tắc cơ bản để Giám sát ngân hàng một cách hiệu quả) đưa ra 26 nguyên tắc quản trị NHTM nói chung và quản trị rủi ro nói riêng.
1.1.2.3 Quy trình Quản trị rủi ro hoạt động NHTM [26]
Tuỳ thuộc vào hồ sơ rủi ro của mình mà mỗi ngân hàng xây dựng một quy trình rủi ro phù hợp. Những ngân hàng có quy mô hoạt động nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp (ví dụ: không có hoạt động quốc tế), danh mục sản phẩm đơn giản…có thể lựa chọn xây dựng cho mình một quy trình quản trị rủi ro ít tốn kém hơn các ngân hàng lớn hơn. Nhưng tựu trung, một quy trình quản trị rủi ro của một NHTM thường bao gồm những bước sau:
Bước 1: Xác định rủi ro và xây dựng hệ thống chính sách, quy chế, quy định
Trong bước này, NHTM cần thực hiện: