Thực Tiễn Hoạt Động Kiến Nghị Của Hđdt, Các Ủy Ban


Thứ tư, HĐDT, các Ủy ban còn “đứng ngoài” hoạt động chất vấn của QH.

Đánh giá về các công cụ giám sát của QH, trong công trình Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền, các tác giả nhận định chất vấn có vẻ là công cụ hiệu quả nhất của giám sát QH ở Việt Nam [9, tr.397]. Tuy nhiên, trái ngược với quan sát này, hoạt động chất vấn tại kỳ họp QH và tại phiên họp của UBTVQH hiện nay mới chỉ ghi nhận vai trò, trách nhiệm của cá nhân đại biểu, vai trò chủ thể thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH mà chưa ghi nhận vai trò chủ thể, thẩm quyền của HĐDT, các Ủy ban trong hoạt động này. Công cụ giám sát là chất vấn mới chỉ được nắm trong tay ĐBQH, chưa được trao cho Hội đồng, Ủy ban. Trong khi đó, một thực tế được ghi nhận trong hoạt động của QH là số lượng chất vấn của các vị ĐBQH tại kỳ họp gần đây nhìn chung có số lượng tương đối lớn, trong khi đó, thời gian dành cho hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại Hội trường là không dài, chủ yếu là vài ba ngày, do đó, tính chất đối thoại, tranh luận trực tiếp, sâu về vấn đề chất vấn còn hạn chế, khó bảo đảm chất lượng (xin tham khảo thêm Phụ lục 4).

Trong điều kiện hoạt động của các chức danh do QH bầu, phê chuẩn diễn ra thường xuyên, liên tục và có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội, thì cơ quan có trách nhiệm giám sát hoạt động của các cơ quan này là QH nước ta lại hoạt động không thường xuyên. Lấy “không thường xuyên” để giám sát “thường xuyên” rõ ràng là khó có thể đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và bảo đảm được hiệu quả. Việc QH trao cho các ĐBQH quyền chất vấn cũng một phần nhằm khắc phục hạn chế này. Tuy nhiên, ĐBQH nước ta cũng lại đa phần là đại biểu hoạt động không chuyên trách, thời gian phải dành chủ yếu cho công việc hàng ngày nên khó có điều kiện thường xuyên theo dõi, chất vấn các chức danh do QH bầu hoặc phê chuẩn nên hiệu quả của sự trao quyền này phần nào cũng bị hạn chế. Thực tế này cũng đã được chỉ ra trong một số công trình nghiên cứu gần đây, như PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa bình luận, “chất vấn người khác là một việc khó, lại càng khó hơn khi người được chất vấn lại đầy quyền uy, thừa hiểu biết, đủ thông tin, có bộ máy chuyên môn thạo việc trợ giúp. Vào thời điểm hiện nay, có thể dự báo QH phải chuẩn bị nhiều năng lực hơn nữa mới có thể chất vấn trúng trách nhiệm của cơ quan hành pháp nước ta” [54, tr.16]. Trong khi đó, nếu xét về năng lực chủ thể, so với chủ thể thực hiện chất vấn là ĐBQH hiện nay, HĐDT, các Ủy ban có lợi thế rất cơ bản là những cơ quan hoạt động thường xuyên của QH, việc nắm bắt tình hình, thông tin về các lĩnh vực thuộc phạm vi phụ trách chắc chắn là đầy đủ, toàn diện hơn so với cá nhân đại biểu. Về mặt nhân sự, Thường trực HĐDT, các Ủy ban tuyệt đại đa số hoạt động theo chế


độ chuyên trách, thành viên Hội đồng, Ủy ban nhìn chung đều có chuyên môn, am hiểu sâu sắc về lĩnh vực hoạt động của Hội đồng, Ủy ban. Nếu phát sinh vấn đề cần chất vấn ở bất cứ thời điểm nào, các cơ quan này sẽ có thể tiến hành việc chất vấn ngay, đáp ứng một cách kịp thời yêu cầu thực tiễn đặt ra [80]. Việc HĐDT, các Ủy ban không can dự vào một phương diện hoạt động nóng bỏng, rất cần yếu tố chuyên môn, cần được trao đổi, thảo luận kỹ, vốn đang bộc lộ những “lỗ hổng” lớn do việc chỉ trao “gánh nặng” lên vai cá nhân ĐBQH là vấn đề chưa thực sự hợp lý, không có lợi cho lợi ích chung.

Khả năng gắn kết vai trò, trách nhiệm của HĐDT, các Ủy ban trong hoạt động chất vấn của QH đã trở thành một nội dung đặt ra từ thực tiễn hoạt động của QH [104], [65, tr.33]; cũng như dưới giác độ khoa học trong một số công trình nghiên cứu gần đây [80]. Tuy nhiên, trên thực tế, việc nghiên cứu sâu và đề xuất các nội dung cụ thể về các nội dung liên quan đến xác lập thẩm quyền chất vấn, trình tự, thủ tục thực hiện... chất vấn của Hội đồng, Ủy ban hay tổ chức chất vấn tại các cơ quan này nhìn chung còn để ngỏ. Bên cạnh đó, trong quá trình ban hành Luật TCQH 2014 vừa qua, một số ý kiến của ĐBQH cũng đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định quyền chất vấn của ĐBQH tại HĐDT, các Ủy ban [16], song Luật TCQH 2014 vừa qua cũng không quy định nội dung này.

Thứ năm, về báo cáo giám sát của HĐDT, các Ủy ban, nếu so sánh với hoạt động thẩm tra, Luật BHVBQPPL 2008 (nay là Luật BHVBQPPL năm 2015) đã quy định tương đối cụ thể về báo cáo thẩm tra của HĐDT, Ủy ban. Trong khi đó, cho đến nay, quy định tương tự về báo cáo giám sát của Hội đồng, Ủy ban lại chưa được ban hành. Điều này phần nào thể hiện sự “khập khiễng” trong khuôn khổ pháp lý về hoạt động của HĐDT, các Ủy ban. Năm 2004, Quy chế hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của QH (Điều 36) chỉ nêu vắn tắt: kết quả giám sát, kiến nghị của HĐDT, các Ủy ban được báo cáo UBTVQH, QH dưới hình thức báo cáo kết quả giám sát; báo cáo kết quả giám sát phải phản ánh đầy đủ ý kiến thành viên Hội đồng, Ủy ban; như vậy, nội dung quy định này còn quá sơ lược. Luật HĐGS của QH và HĐND được ban hành năm 2015 cũng chưa có quy định về nội dung này.

3.2.3. Thực tiễn hoạt động kiến nghị của HĐDT, các Ủy ban

3.2.3.1. Những kết quả đạt được

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.

Thứ nhất, HĐDT, các Ủy ban đã nêu lên nhiều kiến nghị thiết thực đối với các vấn đề quốc kế, dân sinh và được các cơ quan hữu quan tiếp thu, có giải pháp xử lý, phát huy những tác dụng to lớn trong thực tiễn. Có thể kể đến những kết quả


Hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - 15

quan trọng mà Hội đồng, Ủy ban đã đạt được trong hoạt động này, chẳng hạn, từ thực tiễn công tác giám sát, HĐDT đã ghi nhận một thực tế là đầu tư của Nhà nước ta cho miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số mặc dù có nhiều chương trình, nhưng còn phân tán, chưa tập trung vào những vùng khó khăn nhất nên hiệu quả chưa cao; do đó, HĐDT đã kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ về việc cần có chương trình phát triển kinh tế-xã hội cho khu vực III là vùng đặc biệt khó khăn. Sau khi HĐDT có kiến nghị, kiến nghị này đã được Chính phủ chấp nhận, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 về phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135). Kết quả đã cho thấy, Chương trình này phù hợp với thực tế, có ý nghĩa chính trị, kinh tế-xã hội lớn, tạo đà quan trọng cho việc xóa đói, giảm nghèo ở nước ta [81, tr.141].

Thứ hai, trong việc hoàn thiện pháp luật, chính sách liên quan đến lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách, nhiều kiến nghị của Hội đồng, Ủy ban thông qua hoạt động giám sát chuyên đề đã được tiếp thu và khắc phục; được QH tán thành. Chẳng hạn như các kiến nghị của UBTP về những bất cập về địa vị pháp lý và tổ chức hệ thống cơ quan thi hành án dân sự; các chính sách nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự; khắc phục bất cập trong chế độ giam giữ cải tạo phạm nhân, tổ chức hợp lý các trại giam; mở rộng quyền của người dân trong khiếu kiện hành chính, khắc phục những vướng mắc khi thi hành Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, tố cáo; những bất cập trong thi hành Bộ luật hình sự về Tội đánh bạc và thi hành án tử hình [102, tr.719], v.v...

3.2.3.2. Những tồn tại, hạn chế

Thứ nhất, không ít kiến nghị chưa nhận được sự phản hồi kịp thời, chưa được thực hiện một cách triệt để. Đây là thực tế có thể quan sát được trong hoạt động giám sát những năm gần đây. Chẳng hạn, như kinh nghiệm UBKT QH khóa XII đã đề cập khi tổng kết nhiệm kỳ, thì “vấn đề quan tâm hiện nay là các kiến nghị hợp lý qua hoạt động giám sát ít được các cơ quan chức năng xem xét, giải quyết thấu đáo” [100, tr.139]; về phía UBKH-CN-MT, thì “nhiều vấn đề bức xúc về khoa học, công nghệ và môi trường của địa phương mà đoàn giám sát kiến nghị còn chưa được giải quyết hoặc trả lời thỏa đáng. Đây là tồn tại nhiều năm nay trong hoạt động giám sát của QH” [104]; v.v...Một trong những nguyên nhân của tình trạng này, theo UBPL, là do quy định về trách nhiệm của chủ thể chịu sự giám sát trong


việc thực hiện kiến nghị sau giám sát chưa rõ [96, tr.6]. Ở bình diện cụ thể hơn, TS. Bùi Ngọc Thanh cho rằng không ít các kiến nghị sau giám sát còn chung chung, chủ thể chịu sự giám sát cũng khó thực hiện; mặt khác, “chế tài” sau giám sát chỉ là theo dõi, đôn đốc và tiếp tục kiến nghị nên không có tác động thúc đẩy [70].

Có thể nói những hạn chế trong hoạt động kiến nghị của các Ủy ban, nhất là vấn đề cơ chế bảo đảm trách nhiệm của chủ thể chịu sự giám sát trong việc thực hiện kiến nghị nếu không sớm có giải pháp sẽ có thể tiếp tục gây ra những hệ lụy xấu cho lợi ích chung. Chẳng hạn, như đại biểu Lê Thị Nga đã minh chứng tại phiên họp ngày 30/10/2014 kỳ họp thứ 8 QH khóa XIII, thì trong quá khứ (các năm 1999, 2003), hướng tới việc quản lý, sử dụng vốn vay ODA chặt chẽ, hiệu quả hơn, UBĐN có 2 lần giám sát; đến khi xảy ra vụ PMU18 năm 2006, Ủy ban này đã tiếp tục báo cáo lại các kiến nghị giám sát của lần trước nhằm khắc phục những sai phạm, song những kiến nghị này vẫn chưa được tiếp thu đầy đủ [4, tr.5]. Đây là điều đáng lưu ý và không bình thường trong hoạt động của một số cơ quan công quyền, trong bối cảnh thu chi ngân sách nhà nước gặp nhiều khó khăn, việc nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng ODA là hết sức cấp bách, nhất là trong tình hình nợ công, thất thoát như hiện nay. Đáng lưu ý là những trường hợp như ví dụ trên không phải là ngoại lệ. Đơn cử, như phản ánh của UBTP trước UBTVQH liên quan đến hoạt động giám sát văn bản thì: “UBTP đã kiến nghị sửa đổi nhiều lần nhưng việc xử lý rất chậm gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân (ví dụ Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn xét xử về Tội đánh bạc)” [102, tr.445]. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng về mặt pháp lý, kiến nghị của Hội đồng, Ủy ban không có giá trị bắt buộc phải thi hành, mà chỉ dẫn đến trách nhiệm phải trả lời của các chủ thể hữu quan. Do đó, vì lợi ích chung, việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động thực hiện quyền kiến nghị của Hội đồng, Ủy ban không thể bỏ qua đặc điểm này và cần phải nhấn mạnh hơn đến vai trò chủ động trong việc thực hiện các biện pháp quyết liệt hơn nhằm thúc đẩy việc phản hồi, phản ứng cụ thể, tức là có sự biến chuyển trong hoạt động thực tiễn đối với kiến nghị của Hội đồng, Ủy ban.

Thứ hai, trong thực tiễn hoạt động thực hiện quyền kiến nghị của các Ủy ban, còn có tình trạng chưa chú ý theo đuổi đến cùng các kiến nghị đã đưa ra. Kết quả tự đánh giá của Hội đồng, Ủy ban cũng thẳng thắn nhìn nhận thực trạng này. Chẳng hạn, như đánh giá của HĐDT về hoạt động trong nhiệm kỳ, thì “về mặt chủ quan, còn thiếu kiên trì đôn đốc các cơ quan đáp ứng vấn đề cần chất vấn, một số


đợt giám sát còn chung chung, chưa phát hiện cụ thể để kiến nghị cụ thể, có ý kiến còn chưa thích hợp” [63, tr.209]. Tránh việc có thể để xảy ra tình trạng mà như ĐBQH Trần Ngọc Vinh [119] đã nêu là “đánh trống bỏ dùi” trong thực tế và đây cũng được đánh giá là khâu yếu nhất trong hoạt động giám sát cho đến nay.

Thứ ba, các biện pháp mà Hội đồng, Ủy ban có thể sử dụng để bảo đảm có sự chuyển biến trong việc thực hiện thẩm quyền kiến nghị của mình cũng chưa được quy định rõ. Một nghiên cứu gần đây, các tác giả cho rằng, pháp luật hiện hành còn thiếu, chưa quy định các biện pháp chế tài đơn giản, dễ sử dụng song lại có khả năng tác động lớn đến việc làm chuyển biến nhận thức và hành động của các chủ thể là đối tượng chịu sự giám sát, chẳng hạn như phê bình, công bố công khai cho báo chí [82, tr.75]. Để sử dụng một cách hợp lý sức mạnh của yếu tố công khai, tránh tùy tiện, thì trước hết nó phải trở thành một công cụ pháp lý mà HĐDT, Ủy ban có thể sử dụng, song điều này lại chưa được pháp luật quy định.

Thứ tư, trình tự, thủ tục thực hiện quyền kiến nghị việc bỏ phiếu tín nhiệm của HĐDT, các Ủy ban còn thiếu, chưa đầy đủ và cần phải tính tới những quy định mới có liên quan của Hiến pháp năm 2013. Theo quy định tại Điều 34 Luật HĐGSQH 2003 (Điều 45 Luật HĐGS của QH và HĐND 2015), Điều 33 Quy chế hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của QH, trong quá trình giám sát, nếu phát hiện người giữ chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn có hành vi vi phạm pháp luật hoặc không thực hiện đúng và đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao, gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc khi có kiến nghị bằng văn bản của ít nhất 20% tổng số thành viên HĐDT, thành viên Ủy ban về việc xem xét bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn thì HĐDT, các Ủy ban có quyền kiến nghị UBTVQH xem xét trình QH bỏ phiếu tín nhiệm đối với người đó. Trường hợp đa số thành viên Hội đồng, Ủy ban (từ 2/3 tổng số thành viên Hội đồng, thành viên Ủy ban trở lên) bỏ phiếu tán thành thì sau đó, Hội đồng, Ủy ban kiến nghị UBTVQH xem xét trình QH quyết định việc bỏ phiếu tín nhiệm. Thực tế là cho đến nay, chưa xuất hiện trường hợp nào HĐDT, Ủy ban thực hiện thẩm quyền này.

Có ý kiến cho rằng quy định này chặt chẽ quá nên khó khả thi trong thực tế. Theo NCS, cũng tương tự như pháp luật nhiều nước khác, việc kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm liên quan đến sự ổn định của Chính phủ, các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị nói chung, nên việc phải rất thận trọng, chặt chẽ về quy trình là yêu cầu khách quan. Song về mặt luật thực định, yếu tố chặt


chẽ cũng chưa thật bảo đảm, vì tại Điều 33 Quy chế hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của QH có quy định trường hợp phải có kiến nghị bằng văn bản của ít nhất 20% tổng số thành viên Hội đồng, Ủy ban, song còn nhiều điều chưa rõ ở nội dung này. Chẳng hạn, kiến nghị bằng văn bản của ít nhất 20% tổng số thành viên ở đây là kiến nghị bằng văn bản riêng lẻ của từng cá nhân thành viên Hội đồng, Ủy ban hay kiến nghị trong một văn bản chung? Vì nếu kiến nghị trong một văn bản chung thì cách thức để tập hợp được 20% số thành viên Hội đồng, Ủy ban đó như thế nào? Có chấp nhận hình thức vận động, thuyết phục cùng tham gia hoạt động kiến nghị trong nội bộ các thành viên HĐDT, Ủy ban? Việc biểu quyết tại Hội đồng, Ủy ban đã được quy định bằng bỏ phiếu kín (Điều 45 Luật HĐGS của QH và HĐND 2015), song hình thức văn bản là báo cáo kiến nghị, kết luận, hay nên có hình thức văn bản là nghị quyết của Hội đồng, Ủy ban? Nội dung các ý kiến không tán thành việc đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm dù chiếm thiểu số có được phản ánh trong kiến nghị của HĐDT, Ủy ban trình UBTVQH hay không...Như thế, đây là những khoảng trống mà có thể dẫn đến hệ lụy là việc thực hiện có thể mang tính tùy nghi, không thống nhất, trong khi kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm là việc hệ trọng, không thể được thực hiện một cách thiếu chặt chẽ.

Bên cạnh đó, về diện chủ thể được HĐDT, Ủy ban kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm theo quy định tại Điều 34 Luật HĐGSQH năm 2003 (Điều 45 Luật HĐGS của QH và HĐND 2015) là “người giữ chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn” là quá rộng; chưa gắn kết thật chặt chẽ với lĩnh vực hoạt động của HĐDT, Ủy ban. Trong khi đó, điều đáng lưu ý là theo quy định của Hiến pháp năm 2013 (điểm 7 Điều 70), thì diện đối tượng là “người giữ chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn” đã có sự mở rộng lớn so với Hiến pháp năm 1992, theo đó, đã bổ sung thêm các chủ thể như Chủ tịch Hội đồng bầu cử Quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do QH thành lập, Thẩm phán TANDTC. Nếu việc kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh như Chủ tịch Hội đồng bầu cử Quốc gia, Thẩm phán TANDTC...có thể do HĐDT, tất cả các Ủy ban thực hiện thì cũng là vấn đề cần được cân nhắc kỹ.

3.2.4. Phương thức hoạt động của HĐDT, các Ủy ban

3.2.4.1. Những kết quả đạt được

Phương thức thực hiện hoạt động của HĐDT, các Ủy ban đã có những cải tiến, đổi mới quan trọng theo chiều hướng phát huy dân chủ XHCN thực sự trong hoạt động của các cơ quan này, ngày càng phù hợp với các nguyên tắc hoạt động, vị trí, vai trò của HĐDT, Ủy ban. Với tinh thần tâm huyết, trách nhiệm, cởi mở, thẳng thắn và xây dựng, các vị ĐBQH là thành viên đã phát huy trí tuệ, đóng góp ngày càng


tích cực, chủ động vào các hoạt động của HĐDT, Ủy ban, nhất là trong các phiên họp toàn thể, trong việc tham gia các hoạt động của Đoàn giám sát của HĐDT, Ủy ban. QHcũng đã đánh giá, trong điều kiện số lượng đại biểu chuyên trách còn ít, khối lượng công việc nhiều, đòi hỏi chất lượng cao, HĐDT, các Ủy ban đã không ngừng nghiên cứu, cải tiến phương thức làm việc, phát huy trí tuệ tập thể, năng lực, sở trường của mỗi thành viên, chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan, tăng cường hội thảo, tham khảo ý kiến các chuyên gia, các nhà khoa học...[66, tr.258]. Với những cải tiến, đổi mới đó, hoạt động của HĐDT, Ủy ban, nhìn tổng thể đã tạo thuận lợi để QH, UBTVQH xem xét, quyết định các nội dung thuộc thẩm quyền.

3.2.4.2. Những tồn tại, hạn chế

a) Về nguyên tắc hoạt động

Thứ nhất, tập trung dân chủ chưa được minh định rõ trong luật với vị trí là một nguyên tắc trong hoạt động của HĐDT, các Ủy ban

Như đã trình bày tại Chương 2 Luận án, về nguyên tắc, Điều 3 Luật TCQH hiện hành quy định QH làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Về HĐDT, các Ủy ban, Điều 66, Điều 68 Luật TCQH 2014 quy định HĐDT, các Ủy ban là những cơ quan của QH, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Về mặt pháp lý, nếu căn cứ vào quy định này của Luật TCQH thì có thể dẫn đến cách hiểu HĐDT, Ủy ban chỉ thực hiện nguyên tắc làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số theo quy định tại Điều 68. Tuy nhiên, một số VBQPPL khác liên quan, như Luật BHVBQPPL 2008 (Điều 45) có quy định: “báo cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên cơ quan chủ trì thẩm tra” (Điều 67 Luật BHVBQPPL 2015 có quy định tương tự); Điều 36 Quy chế hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của QH cũng quy định: “báo cáo kết quả giám sát phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên Hội đồng, Ủy ban”. Theo Hiến pháp năm 2013 (Điều 8), thì tập trung dân chủ là một nguyên tắc được thực hiện trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta.

Như thế, căn cứ vào các quy định này, lại có thể nhận xét rằng tập trung dân chủ đang được vận hành với dáng dấp là một trong những nguyên tắc trong hoạt động của Hội đồng, Ủy ban và đã được kiểm nghiệm trong thực tế. Song thay vì việc suy luận, việc minh định rõ nguyên tắc này trong hoạt động của Hội đồng, Ủy ban là một yêu cầu thực tế, bởi vì việc không xác định rõ tập trung dân chủ là một nguyên tắc trong hoạt động của HĐDT, các Ủy ban có thể dẫn đến nhận thức và thực thi không thống nhất trong thực tiễn.


Thứ hai, nguyên tắc làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số chưa được bảo đảm đầy đủ.

Có thể nói việc vận hành trên thực tế nguyên tắc làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số của HĐDT, các Ủy ban không phải lúc nào cũng trơn tru. Tính chất thường xuyên trong hoạt động của HĐDT, Ủy ban hiện nay được chủ yếu thực hiện thông qua hoạt động của bộ phận Thường trực. Qua các nhiệm kỳ QH gần đây, thực tiễn hoạt động của HĐDT, các Ủy ban cho thấy việc không có sự tham dự đầy đủ của các thành viên trong phiên họp toàn thể vẫn đang là vấn đề chưa khắc phục được dứt điểm.

Chẳng hạn, từ nhiệm kỳ khóa XI, thực tế của UBPL cho thấy do phần lớn thành viên Ủy ban làm việc tại địa phương và hoạt động kiêm nhiệm, nên thời gian dành cho hoạt động của Ủy ban còn hạn chế [94, tr.158]. Đến nhiệm kỳ QH khóa XII, thực tế này hầu như không thay đổi, “một số thành viên Ủy ban hoạt động kiêm nhiệm, giữ các chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước nên không thể tham gia thường xuyên các phiên họp toàn thể để thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh...” [96, tr.4]; “do phần đông thành viên Ủy ban hoạt động kiêm nhiệm cho nên UBPL không thể thường xuyên tổ chức được các phiên họp toàn thể Ủy ban” [97, tr.362]. Phản ánh của UBTP cũng cho thấy: “nhiều phiên họp thẩm tra của toàn thể Ủy ban thường thiếu nhiều thành viên, có phiên vắng tới 1/3 tổng số thành viên đã làm ảnh hưởng tới việc thảo luận, tranh luận và nhất là bảo đảm nguyên tắc làm việc tập thể, quyết định theo đa số” [102, tr.717]. Ngay đối với UBPL - Ủy ban được trao nhiệm vụ bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, khi tổ chức các phiên họp của Ủy ban, số thành viên tham gia không phải lúc nào cũng đầy đủ và thực tế này đã ảnh hưởng tới việc thực hiện nguyên tắc làm việc tập thể, quyết định theo đa số trong hoạt động của Ủy ban [97, tr.362]. Trong nhiệm kỳ QH khóa XIII, ý kiến của một vị ĐBQH tại phiên họp ngày 22/11/2013, kỳ họp thứ 6 QH khóa XIII cũng phản ánh thực tế này:

Về phía Quốc hội, chúng ta là đại biểu chủ yếu là kiêm nhiệm, các Ủy ban của Quốc hội, kể cả Ủy ban kinh tế chúng tôi không bao giờ toàn thể Ủy ban đều thẩm tra đầy đủ, phấn đấu lắm chỉ có quá bán được một vài người, thậm chí có những lúc không quá bán mà phải lấy ý kiến thì làm sao mà chất lượng được” [116].

Điều này có thể chỉ là việc phản ánh thực tế việc tổ chức các phiên họp toàn thể Ủy ban ở một thời điểm nhất định trong nhiệm kỳ QH khóa XIII hiện nay; song cũng tiếp tục cho thấy đây là thực tế không dễ khắc phục được nếu tiếp tục duy trì chế độ hoạt động của thành viên Hội đồng, Ủy ban với nhiều tầng nấc như hiện nay.

Xem tất cả 240 trang.

Ngày đăng: 23/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí