Nhóm Chính Sách Tác Động Tới Tiêu Thụ Nông Sản Xuất Khẩu


- Đầu tư để nông dân dễ dàng tiếp cận các dịch vụ công nghệ hiện đại: phương pháp gieo trồng hiện đại theo hướng tăng năng suất và giảm thiểu những tác động tiêu cực đối với môi trường.

- Nâng cao sự hiểu biết của người sản xuất nông nghiệp thông qua đào tạo về kiến thức và kỹ năng sản xuất và kinh doanh, cung cấp các dịch vụ để giúp người nông dân triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả phù hợp với sinh thái, khí hậu, thị trường; thiết lập các mô hình kiểu mẫu, phân phối các sản phẩm đầu vào nông nghiệp; chuyển giao các thiết bị và các dịch vụ khuyến nông cho các hoạt động sau thu hoạch và chế biến. Các chính sách này sẽ góp phần tái cấu trúc kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất và chất lượng cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm; đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa nông thôn và nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường.

- Phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao. Những mô hình nông nghiệp công nghệ cao sẽ là những mô hình tiên tiến, góp phần đẩy mạnh hiện đại hóa nền nông nghiệp, đóng góp quan trọng trong phát triển nền nông nghiệp hiện đại, thúc đẩy tăng trưởng sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm cũng như gia tăng nguồn cung ứng cho xuất khẩu nông sản.

1.2.3.2. Nhóm chính sách tác động tới tiêu thụ nông sản xuất khẩu

Các chính sách định hướng xuất khẩu nông sản

Các chính sách này bao gồm chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, chính sách xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu.

Chính sách thị trường là việc xác định cơ cấu thị trường, trong đó xác định tổng quan thị trường tiềm năng, thị trường mục tiêu, thị trường trọng điểm, thị trường phụ cận, bổ trợ…. nhằm bảo đảm khai thác tiềm năng, lợi thế của từng thị trường, chủ động về thị trường, tránh hẫng hụt về thị trường do những biến động về kinh tế, chính trị, dịch bệnh, thiên tai trên thế giới xảy ra. Chính sách thị trường bao gồm hệ thống các chính sách liên quan việc phát triển thị trường cho các ngành hàng cụ thể dựa trên đặc điểm của thị trường, nhu cầu cũng như khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ tới những thị trường đó. Mục tiêu của các chính sách thị trường


nhằm định hướng và quản lý các hoạt động thương mại quốc tế theo thị trường, khai thác lợi thế của từng thị trường để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, cũng như nhằm hướng tới việc phát triển thị trường trên cở sở phát triển bền vững và cạnh tranh lành mạnh. Nội dung của chính sách thị trường bao gồm những quy định, những biện pháp có tác động đến các hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, có thể liên quan với một thị trường cụ thể đối với một mặt hàng cụ thể, nhằm quản lý hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, cũng như giúp thúc đẩy xuất khẩu hoặc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Chính sách mặt hàng nông sản xuất khẩu là việc xác định cơ cấu mặt hàng nông sản XK trong ngắn hạn và trong dài hạn. Cơ cấu mặt hàng nông sản có thể xem xét trên nhiều giác độ: hàng nông sản là sản phẩm chăn nuôi, trồng trọt, nguyên liệu dạng thô, nguyên liệu sơ chế, nông sản chế biến sâu, chế biến tinh; lương thực đồ uống, thực phẩm; mặt hàng chủ lực, sản phẩm mới, sản phẩm tiềm năng… Trong đó, xác định mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, nông sản xuất khẩu mới và nông sản xuất khẩu tiềm năng là rất quan trọng, góp phần bảo đảm cho xuất khẩu nông sản tăng trưởng ổn định và vững chắc cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Chính sách xúc tiến thương mại là xây dựng các chương trình, biện pháp thúc đẩy sự hình thành và tham gia của một nước vào các hội chợ thương mại, các phái đoàn thương mại, các chiến dịch quảng cáo, cũng như cung cấp thông tin, tư vấn về triển vọng thị trường nước ngoài, tiếp cận nghiên cứu, tài trợ thương mại hoặc giải quyết các khó khăn về tiếp cận thị trường.

Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU - 5

Chính sách xúc tiến thương mại đối với nông sản là những chương trình, biện pháp nhằm xúc tiến, phát triển thương mại nông sản của một nước. Chính sách này được xây dựng nhằm hỗ trợ việc thực hiện chính sách thị trường, chính sách mặt hàng nông sản xuất khẩu; thúc đẩy việc khai thác các lợi thế so sánh quốc gia về sản xuất nông nghiệp và khắc phục những thiên lệch bất lợi cho xuất khẩu do các chính sách khác trong nước tạo ra. Bước vào giai đoạn mới, khi XNK nông sản chuyển sang phát triển bền vững dựa vào công nghệ cao để xây dựng nền nông nghiệp sạch và sản xuất hàng hóa lớn, đòi hỏi phải đẩy nhanh đổi mới hoạt động này.


Xúc tiến xuất khẩu có chức năng xúc tiến bán hàng, gắn kết cung-cầu hàng hóa, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ. Thực trạng khó khăn trong gắn kết sản xuất nông sản hàng hóa với thị trường tiêu thụ và xuất khẩu đòi hỏi ngành thương mại phải tìm kiếm đầu ra cho nông sản hàng hóa từ thị trường trong nước đến thị trường xuất khẩu. Chính sách xúc tiến thương mại bao gồm các chương trình, biện pháp thúc đẩy sự hình thành và tham gia một nước vào các hội chợ thương mại, các phái đoàn thương mại, các chiến dịch quảng cáo, cũng như việc cung cấp các thông tin, tư vấn về thị trường (luật pháp, chính sách, quy định có liên quan của các nước nhập khẩu), tư vấn về triển vọng thị trường nước ngoài, tiếp cận nghiên cứu, tài trợ thương mại, tư vấn, hỗ trợ vượt các rào cản về tiếp cận thị trường, ...

Tăng cường công tác dự báo để định hướng cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu nông sản. Thực hiện hiệu quả Chương trình xúc tiến xuất khẩu trọng điểm để đẩy mạnh tiêu thụ nông sản hàng hóa cho nông dân, từ điều tra, quy hoạch đến tổ chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Củng cố tổ chức và vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao, ngoại thương của ta ở nước ngoài, trợ giúp tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế...

1.2.3.3. Các chính sách điều tiết xuất khẩu nông sản

Thuế xuất khẩu là tỷ lệ thuế suất đánh vào giá trị hàng nông sản xuất khẩu hoặc mức thuế tuyệt đối tính trên mỗi đơn vị hàng nông sản xuất khẩu. Chính sách thuế xuất khẩu của nước lớn có thể làm thay đổi giá nông sản trên thị trường thế giới (trong khi thuế xuất khẩu của nước nhỏ thì không gây ra tác động này). Đối với nước lớn, thuế xuất khẩu của họ có thể làm giảm cung xuất khẩu hàng nông sản trên thị trường thế giới và gây áp lực giảm giá trong nước do cung trong nước tăng. Đối với nước nhỏ, khi chính phủ đánh thuế xuất khẩu lên hàng nông sản sẽ làm giảm lượng xuất khẩu.

Hạn ngạch xuất khẩu là mức hạn chế về số lượng hay giá trị xuất khẩu tối đa một loại hàng hóa nào đó do chính phủ đặt ra. Tác động của hạn ngạch xuất khẩu cũng tương tự như thuế xuất khẩu là làm giảm khối lượng xuất khẩu. Tuy nhiên, mức độ điều tiết xuất khẩu kém hơn thuế. Thông thường, khi chính phủ áp dụng hạn


ngạch xuất khẩu đối với nông sản là nhằm bảo đảm an ninh lương thực, bảo vệ tài nguyên môi trường.

1.2.3.4. Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu nông sản

Trợ cấp xuất khẩu là khoản chi của chính phủ cho mỗi đơn vị, khối lượng hay giá trị hàng của công ty hay cá nhân xuất khẩu ra nước ngoài. Trợ cấp xuất khẩu thực chất là thuế xuất khẩu âm. Trợ cấp xuất khẩu (trường hợp nước nhỏ) sẽ không làm thay đổi giá thế giới của hàng nông sản nhưng mang lại lợi ích cho nhà xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu giúp nông dân có thể bán hàng với giá thấp hơn, làm tăng sức cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới. Mức độ trợ cấp phụ thuộc vào chính sách khuyến khích của nhà nước đối với từng mặt hàng và mức độ cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường thế giới.

Trợ cấp tín dụng xuất khẩu là việc nhà nước cho những người xuất khẩu trong nước vay những khoản tín dụng ưu đãi nhằm khuyến khích xuất khẩu (trợ cấp tín dụng cho người bán) hoặc chính phủ dành một khoản vay có tính chất trợ cấp cho người mua để khuyến khích họ mua hàng của nước mình (trợ cấp cho người mua). Tác động của trợ cấp tín dụng xuất khẩu cũng giống như trợ cấp xuất khẩu, nó làm tăng lượng xuất khẩu và giúp nhà xuất khẩu bán được giá cao hơn vì giá bán chịu hàng hoá bao gồm bán trả tiền ngay và phí tổn trả chậm mà vẫn đảm bảo lợi tức. Chính sách trợ cấp tín dụng xuất khẩu ngoài mục đích mang lại lợi ích cho người sản xuất và xuất khẩu, chính phủ còn sử dụng công cụ này nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản khi vào vụ thu hoạch nhưng khả năng của người mua bị hạn chế hoặc khi người mua gặp bất trắc trong việc thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ này có thể sẽ vi phạm các cam kết quốc tế trong các hiệp định tự do hóa thương mại.

Bảo hiểm xuất khẩu nông sản là việc nhà nước lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu làm nhiệm vụ gánh vác rủi ro, bất trắc đối với các nhà xuất khẩu bán hàng trả chậm cho nước ngoài. Trường hợp nhà xuất khẩu bị tổn thất do phía người mua gây ra, nhà nước đứng ra bảo hiểm đền bù. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ này có thể dẫn đến sự lựa chọn ngược và “rủi ro đạo đức” nếu thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác.


1.2.4. Tiêu chí đánh giá chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản

Dưới đây là một số tiêu chí đánh giá chính sách được thừa nhận rộng rãi nhất: (1) Tính hiệu lực của chính sách, (2) Tính hiệu quả của chính sách, (3) Tính hữu dụng của chính sách, (4) Tính công bằng của chính sách, (5) Tính đáp ứng yêu cầu của đối tượng chính sách, (6) Kết hợp hợp lý giữa hiệu qủa và công bằng (hay tính thích đáng của chính sách).

1.2.4.1. Tính hiệu lực của chính sách

Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của chính sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn của chính phủ. Đánh giá hiệu lực của chính sách là trả lời câu hỏi: Chính sách có đạt được các kết qủa có giá trị hay không; Đánh giá tính hiệu lực của chính sách thường đòi hỏi nhiều thông tin và phương pháp tiến hành phức tạp, song nó rất có ích đối với các nhà hoạch định chính sách để xem xét cần tiếp tục duy trì hay thay đổi chính sách hiện hành.

Hiệu lực của một chính sách bao gồm (1) Hiệu lực lý thuyết và (2) Hiệu lực thực tế. Một chính sách sau khi được ban hành sẽ có hiệu lực lý thuyết, đó là hiệu lực được nhà nước công nhận để đưa chính sách vào vận hành. Hiệu lực thực tế là hiệu lực có được khi chính sách tác động đến thực tế làm biến đổi thực tế theo mong muốn của chính phủ - Chính sách chỉ đạt được hiệu lực thực tế khi nó được áp dụng và đem lại kết quả nhất định; Cần lưu ý rằng, một chính sách chỉ đạt được hiệu lực thực tế tốt nếu chính sách được hoạch định đúng đắn về lý thuyết. Một chính sách có hiệu lực lý thuyết đôi khi lại không có hiệu lực trên thực tế do những thiếu sót khó khăn gặp phải trong khâu thực thi. Chính sách chỉ có thể được coi là đúng đắn về lý thuyết khi nó tính đến những yếu tố thực tiễn để đảm bảo sự thực thi thành công.

Như vậy: Hiệu lực của một chính sách là kết quả tác động tổng hợp của cả hiệu lực lý thuyết cũng như hiệu lực thực tế. Khả năng thành công hay thất bại của một chính sách phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Nhà hoạch định và nhà thực thi chính sách phải biết phân tích, lựa chọn phương án tối ưu nhất để thực hiện chính


sách thành công: Hiệu lực của một chính sách phản ánh tính đúng đắn về lý thuyết cũng như hoạt động thực tế.

Ở đây cũng cần lưu ý đến một thực tế: làm giảm hiệu lực của các chính sách

- Đó là tình trạng các chính sách được đề ra nhiều nhưng không có sự đánh giá, phán xét nghiêm minh. Điều đó dẫn đến chỗ người dân mất lòng tin vào chính sách và chính sách vừa ra đời bị mất hiệu lực một cách “vô hình"

1.2.4.2. Tính hiệu quả của chính sách

Việc đánh giá hiệu quả của một chính sách nhằm trả lời cho câu hỏi: cần bao nhiêu nỗ lực để đạt được các kết quả có giá trị?

Tính hiệu quả của chính sách cũng là tương quan so sánh giữa kết quả do chính sách đó đưa lại so với chi phí và công sức đã bỏ ra cho kết qủa đó.

Khi đánh giá hiệu quả của một chính sách, về nguyên tắc, người ta phải xác định hiệu quả tổng hợp của chính sách - Đó là kết quả tổng hợp cả về kinh tế - xã hội của chính sách đó. Hiệu quả tổng hợp phản ánh mức độ đạt được các kết quả về kinh tế và về tác động xã hội theo mục tiêu đã đề ra với một chi phí và công sức nhất định. Tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu không thể lượng hóa được, nhất là những tác động xã hội. Do đó hiệu quả xã hội thường chỉ có thể xác định về mặt định tính. Còn hiệu quả kinh tế có thể đánh giá bằng chỉ tiêu định lượng, thể hiện tương quan so sánh giữa kết quả thu được bằng với chi phí bỏ ra.

Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh tế thị trường được đo bằng hiệu quả Pareto. Hiệu qủa Pareto là một thuật ngữ dùng để chỉ hiệu qủa kinh tế mang tên nhà toán học - kinh tế học người Italy là Vilfredo Domaso Pareto (1848 - 1923) - Theo nguyên lý Pareto, một sự di chuyển làm cho hoàn cảnh của người này tốt lên mà không làm hoàn cảnh của người khác bị tồi đi được gọi là một hoàn thiện Pareto

- Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn đến hiệu quả (một sự di chuyển làm cho hoàn cảnh của người này tốt lên mà không làm hoàn cảnh của người khác bị tồi đi được gọi là một hoàn thiện Pareto) Pareto. Nhưng trong thực tế, nền kinh tế hoạt động một cách không hoàn hảo, nên sự phân bổ các nguồn lực không dẫn đến hiệu quả Pareto. Đây là lý do để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm nâng cao hiệu


quả. Sự can thiệp của nhà nước chỉ đạt hiệu qủa khi đem lại phúc lợi xã hội cao hơn. Nhà nước có thể sử dụng một tập hợp các chính sách để tạo nên một hoàn thiện Pareto, làm tăng hiệu quả kinh tế và tăng phúc lợi xã hội. Các chính sách trợ giúp của chính phủ cho tiến bộ khoa học mới hay để truyền bá các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng là những hoàn thiện Pareto.

1.2.4.3. Tính hữu dụng của chính sách

Tính hữu dụng của chính sách phản ánh mức độ vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu - Đánh giá tính hữu dụng của chính sách trả lời cho câu hỏi: “Việc đạt được các kết quả đã giải quyết được vấn đề ở mức độ nào”

Chẳng hạn, hãy xem xét một chương trình cho vay vốn để tạo việc làm cho người nghèo được thực hiện vào năm 1994, với mục đích giảm nghèo nhờ thu nhập từ việc làm. Đối tượng của chương trình này gồm hai loại: (1) Cho cá nhân những người nghèo vay; (2) Cho các cơ sở sản xuất và doanh nghiệp nhỏ vay để tạo công ăn việc làm. Song chương trình đã không đáp ứng được mục tiêu đặt ra do các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Việc làm thủ tục cho vay do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành phố quản lý không thuận lợi cho người nghèo vì: người nghèo khó khăn trong việc đi xin vay vốn; thủ tục vay vốn đối với người nghèo có trình độ văn hóa thấp là khá phức tạp, bản thân cấp chính quyền còn có tư tưởng ngại cho người nghèo vay sẽ có nhiều rủi ro, việc cho vay đòi hỏi phải lấy giấy phép sử dụng đất đai làm thế chấp cũng gây khó khăn cho người nghèo... Do đó, những cá nhân nghèo khó có thể xin vay tiền. Thứ hai: Việc cho các doanh nghiệp nhỏ vay tiền cũng không bảo đảm cho người nghèo có việc làm, bởi vì lãnh đạo doanh nghiệp có xu hướng dành cơ hội làm việc cho họ hàng thân thích hơn là cho những nguời ngoài đang thất nghiệp.

Như vậy, chương trình cho vay vốn để tạo việc làm cho người nghèo nói trên đã không giải quyết đúng vấn đề theo mục tiêu đặt ra. Những trở ngại ở đây xuất hiện trong khâu thực thi, do thủ tục phức tạp, do ý đồ cá nhân của những người tổ chức thực thi đã bóp méo ý định ban đầu của chính sách; Song điều đó cũng cho thấy sai lầm trong khâu hoạch định chính sách là đã không tính hết các khả năng có thể xảy ra trong điều kiện cụ thể lúc đó.


Một chương trình nâng cao khả năng tiếp cận với hệ thống giáo dục phổ thông đối với các dân tộc thiểu số cũng sẽ khó đạt được mục tiêu đề ra nếu không quan tâm đến các yếu tố như khó khăn về ngôn ngữ, chương trình giảng dạy phù hợp, công tác đào tạo cũng như chế độ đối với giáo viên và cơ sở vật chất cần thiết.

1.2.4.4. Tính công bằng

Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ: các chi phí và lợi ích có được phân bổ công bằng giữa những cá nhân và các nhóm người khác hay không. Công bằng bao gồm công bằng theo chiều dọc và công bằng theo chiều ngang. (1) công bằng theo chiều dọc là sự đối xử khác nhau đối với những người khác nhau, đối xử với người giàu khác với người nghèo. Do đó, một chương trình sẽ tăng tính công bằng nếu nó tiến hành chuyển dịch nguồn lực từ những người giàu hơn sang những người nghèo hơn. (2) Công bằng theo chiều ngang là sự đối xử như nhau đối với những người như nhau. Điều này có nghĩa là những người có kết quả hoạt động như nhau, không phân biệt giới tính, dân tộc. tôn giáo, màu da... .đều được đối xử như nhau.

Một trong những khiếm khuyết đáng kể của nền kinh tế thị trường là nó luôn tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Theo Simon Kuzntes, trong lịch sử phát triển kinh tế, mỗi quốc gia trải qua ba giai đoạn khác nhau của sự bất bình đẳng. Thứ nhất, giai đoạn đầu khi kinh tế chưa phát triển, thu nhập và phân phối tương đối đồng đều, tương đối công bằng – nhưng đó là công bằng trong nghèo khổ. Thứ hai, khi nền kinh tế thị trường phát triển, sự bất bình đẳng trong thu nhập và phân phối tăng lên. Tại những thời điểm tăng trưởng càng nhanh thì sự bất bình đẳng càng gia tăng. Thứ ba, khi nền kinh tế phát triển cao, bất bình đằng trong phân phối và thu nhập sẽ giảm dần.

Thực tế những năm qua cho thấy, sự tăng trưởng, quyền bình đẳng và sự giảm bớt đói nghèo có thể cùng tiến bước với nhau, điều này đã diễn ra ở phần lớn vùng Đông Á. Nhiều chính sách đã thúc đẩy sự tăng trưởng và sự bình đẳng cùng một lúc. Chẳng hạn, cải tiến giáo dục vừa tạo ra vốn con người vừa giúp đỡ người nghèo, việc cung cấp ruộng đất cho nông dân nghèo không những dẫn đến tăng cường sự bình đẳng; mà còn nâng cao cả năng suất lao động. Các nước Đông Á đã

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/02/2023