Phân Loại Chính Sách Thúc Đẩy Xuất Khẩu Nông Sản


Thứ ba, chính sách XKNS bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, gồm quan điểm, chủ trương, chiến lược, quy hoạch, nguyên tắc, công cụ, biện pháp được nhà nước lựa chọn.

Thứ tư, đối tượng tác động của chính sách là lĩnh vực xuất khẩu nông sản của quốc gia. Cụ thể hơn, đó là tổng thể những hoạt động kinh tế trong lĩnh vực liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới sản xuất và tiêu thụ nông sản xuất khẩu. Phạm vi rộng hẹp của chính sách tùy tuộc vào mục đích, phạm vi nghiên cứu. Có thể nghiên cứu chính sách XKNS chỉ giới hạn tác động ở khâu tiêu thụ nông sản. Ở phạm vi này, chính sách XKNS là một bộ phận của chính sách thương mại đối với hàng nông sản. Mặt khác, chính sách XKNS cũng có thể nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn, từ khâu sản xuất nông sản XK tới khâu tiêu thụ nông sản XK. Việc nghiên cứu chính sách XKNS theo phạm vi rộng đảm bảo tính đồng bộ, toàn diện của quá trình xuất khẩu nông sản. Với phạm vi này có thể coi chính sách XKNS là phần “giao thoa” của chính sách nông nghiệp và chính sách thương mại đối với hàng nông sản xuất khẩu.

Thứ năm, chính sách XKNS có mục tiêu xác định và thay đổi theo sự thay đổi của mục tiêu. Chính sách và mục tiêu gắn bó chặt chẽ với nhau, những mục tiêu không có trong thành phần của chính sách XKNS.

1.2.1.2. Phân loại chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản

Có thể phân loại chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản theo các tiêu chí sau đây:

Theo địa chỉ tác động của chính sách trong quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản xuất khẩu. Chính sách được phân ra gồm: (1) Chính sách định hướng chung cho sản xuất và tiêu thụ nông sản xuất khẩu (chiến lược, quy hoạch sản xuất, tiêu thụ nông sản xuất khẩu); (2) Chính sách đối với sản xuất hàng nông sản xuất khẩu; và (3) Chính sách đối với tiêu thụ nông sản xuất khẩu.

Theo chính sách tác động ở từng công đoạn của quá trình sản xuất nông sản, gồm:

(1) Nhóm chính sách tác động tới tiêu thụ nông sản xuất khẩu (chính sách định hướng xuất khẩu nông sản:

+ Chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, chính sách xúc tiến thương mại đối với hàng nông sản

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.


+ Chính sách điều tiết xuất khẩu nông sản (thuế xuất khẩu, các công cụ phi thuế);

Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU - 4

+ Chính sách hỗ trợ xuất khẩu nông sản (trợ cấp XK, tín dụng XK…);

+ Chính sách tác động tới nông sản xuất khẩu (chiến lược quy hoạch sản xuất nông sản XK, trợ giá đầu ra, hỗ trợ đầu vào, tín dụng cho người sản xuất…);

(2) Nhóm chính sách tác động tới sản xuất nông sản xuất khẩu:

+ Chiến lược, quy hoạch sản xuất nông sản xuất khẩu

+ Trợ giá đầu ra

+ Hỗ trợ đầu vào

+ Tín dụng cho người sản xuất

Nhóm chính sách tác động tới sản xuất và tiêu thụ nông sản xuất khẩu:

+ Chính sách tạo mối liên kết giữa người sản xuất, doanh nghiệp, nghiên cứu, ngân hàng và nhà nước

+ Chính sách tỷ giá

+ ….

Theo mức độ quan trọng của mục tiêu cần đạt tới của chính sách, gồm: chính sách xuất khẩu nông sản phục vụ mục tiêu cơ bản, mục tiêu thứ yếu, mục tiêu tổng hợp.

Theo ba khâu trong sản xuất và phân phối, gồm: (1) chính sách tác động ở khâu sản xuất nông sản xuất khẩu trợ giá sản phẩm nông sản XK, chính sách tín dụng có mục tiêu đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất nông sản XK, chính sách trợ cấp vốn đầu tư vào máy móc, hệ thống thủy lợi, chính sách đất đai, khuyến nông…); (2) chính sách tác động ở khâu tiêu thụ tại thị trường nội địa (chính sách định giá sàn thu mua nông sản XK, chính sách thuế sản phẩm nông sản XK, chính sách trợ cấp cho ngành công nghiệp có liên quan tới sản xuất nông sản XK, chính sách đầu tư vào nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất nông sản, chính sách đầu tư xây dựng sản xuất và chế biến nông sản XK); (3) chính sách tác động ở khâu tiêu thụ tại biên giới quốc gia (thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu đối với vật tư phục vụ sản xuất nông sản xuất khẩu, trợ cấp XK, thuế XK khác, các hàng rào phi thuế quan, chính sách tỷ giá…).


Trong luận văn này, tác giả tiếp cận nội dung chính sách được phân loại theo tiêu chí thứ nhất là “Địa chỉ tác động của chính sách trong quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản xuất khẩu”.

1.2.2. Vai trò, chức năng và nguyên tắc của chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản

1.2.2.1. Vai trò của chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản

Vai trò của chính sách đối với thúc đẩy xuất khẩu nông sản thể hiện ở các nội dung sau đây:

Thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước thâm nhập và mở rộng thị trường ra nước ngoài, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước. Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản nhằm tạo ra nguồn thu đáng kể cho các chủ thể trong chuỗi cung ứng hàng nông sản – mặt hàng có lợi thế của nước ta, mang lại lợi ích cho cả nhà sản xuất, thương gia và hộ nông dân, hợp tác xã. Đồng thời, tạo cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam cọ xát hơn nữa với thế giới, có điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh và khẳng định vị thế mới của mình trên trường quốc tế.

Thứ hai, thúc đẩy chuyển dịch mạnh mẽ hơn cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu ngày càng tích cực và hướng vào lõi công nghiệp hóa.

Cuối cùng là chính sách giúp định hướng doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực, nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu và cạnh tranh, chính sách cũng tạo ra áp lực để các chủ thể trong chuỗi giá trị cung ứng nông sản đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ chế biến triển khai áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế đối với các sản phẩm xuất khẩu: xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực đối với hàng hóa xuất khẩu.

1.2.2.2. Chức năng của chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản

Chức năng định hướng

Chính sách là công cụ quan trọng góp phần định hướng hành vi của các chủ thể kinh tế, xã hội. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu đề ra những giới hạn cho phép


của các quyết định làm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra cho các tổ chức, cá nhân tham gia xuất khẩu. Chức năng định hướng liên quan đến thúc đẩy xuất khẩu là sự can thiệp của chính phủ đến hoạt động xuất khẩu nhằm phát huy được lợi thế của mặt hàng thị trường để khai thác những lợi thế mà xuất khẩu mang lại.

Chức năng điều tiết

Chính sách được Nhà nước ban hành để giải quyết những vấn đề phát sinh trong nền kinh tế. Đối với xuất khẩu, chính sách nhằm điều tiết các cân đối cung cầu, khắc phục tình trạng mất cân đối trong việc sử dụng các nguồn lực, điều tiết những hành vi không phù hợp trong xuất khẩu hàng hóa. Ngoài ra, chính sách thúc đẩy xuất khẩu còn điều tiết việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực trong nước để đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực, bảo vệ môi trường.

Chức năng tạo tiền đề và khuyến khích phát triển

Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nhằm hướng tới thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu bền vững thông qua việc xây dựng môi trường thuận lợi.

1.2.2.3. Nguyên tắc của chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản

Để thực hiện được vai trò như là một trong những công cụ quản lý quan trọng nhất các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản phải thỏa mãn được những yêu cầu nguyên tắc cơ bản như sau:

Nguyên tắc khách quan: Để đảm bảo tính hiện thực cũng như hiệu lực và hiệu quả thực hiện, các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản phải tuân thủ đòi hỏi của các quy luật khách quan. Là sản phẩm sáng tạo của Nhà nước, việc đảm bảo nguyên tắc khách quan không phải là việc đơn giản mà cần đòi hỏi các chính sách phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn vững vàng bởi những con người có năng lực và hết lòng vì sự nghiệp của đất nước.

Nguyên tắc đồng bộ và hệ thống: Các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội không tồn tại biệt lập mà luôn luôn liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản cần được xây dựng đồng bộ và đảm bảo cho cơ chế quản lý có thể vận hành trôi chảy và có hiệu quả nhằm khai thác, phát huy mọi tiềm năng đang bị kìm hãm trong xã hội. Các chính sách thúc đẩy xuất


khẩu nông sản trong những thị trường xuất khẩu khác nhau không làm triệt tiêu các kết quả của nhau mà còn cần kết hợp với nhau thành một hệ thống, tạo nên “lực cộng hưởng” để thúc đẩy sự phát triển thương mại quốc tế của nước ta. Cần thấy rõ mối quan hệ giữa chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản với các bộ phận khác trong cơ chế quản lý. Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản được đề ra trên cơ sở pháp luật và nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật, chúng cũng là kế hoạch theo nghĩa là những điều khoản quy định chung để hướng dẫn và khai thông cách suy nghĩ và hành động khi ra quyết định. Đặc biệt quan trọng là mục tiêu đề ra của các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản cụ thể cần phải ăn khớp với nhau và phù hợp với các mục tiêu phát triển xuất khẩu nông sản bền vững lâu dài của toàn bộ xã hội

Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn: Mọi chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản đều được hoạch định trên cơ sở các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội và thể hiện ý chí của nhân dân lao động do Nhà nước đại diện. Để có thể xây dựng được những chính sách xuất khẩu nông sản một cách khoa học thực thi và khả thi đương nhiên chúng ta cần học tập kinh nghiệm từ bên ngoài, coi trọng việc sử dụng những giá trị chung mà công cuộc phát triển nền kinh tế thị trường ở các quốc gia đã khẳng định song điều đó hoàn toàn không có nghĩa là sao chép, bê nguyên kinh nghiệm của nước ngoài. Trong lịch sử đã có nhiều thí dụ về những thất bại do bệnh giáo điều, dập khuôn gây ra.

Nguyên tắc hiệu quả kinh tế xã hội: Mỗi một chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản cụ thể đều có tính 2 mặt của nó. Trong khi tiềm năng của nền kinh tế thì có hạn mà nhu cầu của thị trường quốc tế thì không ngừng thay đổi. Vì thế trong quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách cần phải vận dụng quy luật bù trừ để tính toán không chỉ có lợi thế so sánh mà cả chi phí cơ hội nữa. Chú trọng phân tích các mối quan hệ ngược, tính toán đầy đủ những lợi ích thu về và chi phí bỏ ra do thúc đẩy xuất khẩu nông sản, nhờ đó có thể đáp ứng cả hiệu quả kinh tế lẫn hiệu quả xã hội.


1.2.3. Các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản

1.2.3.1. Nhóm chính sách tác động tới sản xuất hàng nông sản xuất khẩu

Có nhiều chính sách tác động tới sản xuất hàng nông sản xuất khẩu, một số chính sách chủ yếu bao gồm:

Trợ cấp sản xuất nông nghiệp (trợ giá đầu ra cho sản xuất) là khoản chi trả trực tiếp của chính phủ cho nông dân bảo đảm họ nhận được mức giá nông sản cao hơn mức giá thế giới trong khi người tiêu dùng chỉ phải trả mức giá tương đương mức giá thế giới.

Chính sách hỗ trợ đầu vào cho sản xuất nông sản bao gồm chính sách giá đầu vào, chính sách đối với hệ thống phân phối đầu vào, chính sách cung cấp thông tin đầu vào cho nông dân… Các đầu vào biến đổi mà người nông dân phải mua là phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, giống…. Trợ giá đầu vào là việc nhà nước cam kết bảo đảm cho nông dân được mua các đầu vào với một giá cố định thấp hơn giá nhà máy, giá thị trường hay giá nhập khẩu. Trợ cấp đầu vào là khoản chi trả cố định hay chi trả theo tỷ lệ của nhà nước cho mỗi đơn vị đầu vào mà nông dân sử dụng. Trợ giá đầu vào có thể trả cho nhà nhập khẩu các đầu vào, các nhà sản xuất trong nước, những tổ chức phân phối đầu vào của nhà nước khi những tổ chức đó có quyền lực đặc biệt về phân phối đầu vào cho nông dân. Trợ giá đầu vào làm tăng lượng nông sản xuất khẩu, người sản xuất có lợi nhưng không làm ảnh hưởng đến giá thị trường của nông sản nội địa. Trong trường hợp cần khuyến khích nông dân tăng sản lượng loại nông sản xuất khẩu đang có nhu cầu cao trên thị trường thế giới hoặc cần đưa vào trồng các loại giống mới để xuất khẩu, cần khuyến khích áp dụng công nghệ canh tác mới, chính phủ thường sử dụng chính sách trợ cấp rộng rãi các đầu vào như phân hóa học, giống mới, thuốc trừ sâu.

Chính sách tín dụng đầu vào là việc nhà nước phân bổ tín dụng cho nông dân thông qua các tổ chức tín dụng của nhà nước, do nhà nước điều tiết để đạt được những mục tiêu như tăng sản lượng, công bằng… Những công cụ chính sách tín dụng nhà nước thường được sử dụng để hỗ trợ nông dân mua các đầu vào sản xuất nông sản xuất khẩu gồm:


+ Tỷ lệ lãi suất thấp: Nhà nước cung cấp các khoản tín dụng lãi suất thấp cho nông dân. Việc cho nông dân vay lãi suất thấp sẽ khuyến khích họ sử dụng tín dụng nhiều hơn để mua đầu vào mới nào đó.

+ Cho vay theo mục tiêu: Nhà nước cho nông dân vay theo dự án và theo loại cây trồng mục tiêu đã được định hướng sẵn. Chẳng hạn, cho vay để trồng nông sản giống mới cho chất lượng, phẩm cấp cao hơn; hoặc để thay đổi quy trình sản xuất theo hướng sạch hơn, bền vững hơn.

+ Điều tiết các khoản đầu tư cho vay: Nhà nước có thể sử dụng các biện pháp linh hoạt nhằm điều chỉnh việc cho vay nông nghiệp của các tổ chức tín dụng. Các phương thức phổ biến điều chỉnh cho vay nông nghiệp của các tổ chức tín dụng bao gồm: quy định tỷ lệ cho vay tối thiểu đối với nông nghiệp trong tổng số tiền cho vay; quy định mức cho vay tối đa đối với một hộ nông dân; quy định thời hạn cho vay tối đa.

Thông thường chính sách tín dụng được chính phủ sử dụng nhằm (1) khắc phục sự hạn chế tăng trưởng sản lượng nông sản xuất khẩu do thiếu tiền đầu tư trong nông nghiệp và mua các đầu vào cho sản xuất nông sản xuất khẩu; (2) thúc đẩy sự lựa chọn kỹ thuật mới cho sản xuất nông sản xuất khẩu của nông dân bằng cách cung cấp vốn lưu động cho họ từ đó bổ sung các đầu vào cần thiết cho sản xuất nông sản xuất khẩu; (3) giúp nông dân giảm bớt khó khăn do phải vay từ các nguồn tín dụng không chính thức (lãi suất cao, không có tài sản thế chấp, thiếu thông tin…); (4) bù đắp cho nông dân sản xuất nông sản xuất khẩu những bất lợi do những chính sách khác không thuận lợi đối với họ như giá phân bón và các đầu vào khác cao.

Chính sách khoa học công nghệ phục vụ sản xuất nông sản xuất khẩu là chính sách thể hiện vai trò của nhà nước tạo ra, lựa chọn và phổ biến kỹ thuật nông nghiệp mới cho xuất khẩu tới hộ nông dân. Chính sách về KHCN đề cập đến những quy định/định hướng về đầu tư vào nhân lực và cơ sở hạ tầng khoa học hỗ trợ nghiên cứu nông nghiệp, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại kết hợp với kinh nghiệm


truyền thống trong sản xuất và chế biến nông sản nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và phát triển xuất khẩu bền vững các sản phẩm nông sản.

Để đảm bảo phát triển bền vững xuất khẩu nông sản, các nội dung về KHCN trong nông nghiệp mà chính sách có thể tác động đến bao gồm:

- Cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Các chính sách thúc đẩy cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản sẽ góp phần quan trọng vào việc hạ giá thành sản phẩm, tăng sản lượng, cải thiện chất lượng và tiết kiệm nhân công. Cơ giới hóa trong nông nghiệp đề cập tới tăng cường sử dụng các máy móc, thiết bị phục vụ làm đất, chống xói mòn, các máy gieo hạt, thu hoạch và các thiết bị phù hợp cho thâm canh tăng vụ, tưới tiêu tự động hóa trong lĩnh vực trồng trọt, hay sử dụng thiết bị tự động trong chăn nuôi (như máy vắt sữa, máy thu hoạch trứng, các hệ thống cho gia súc ăn tự động…). Sử dụng các máy móc phục vụ sau thu hoạch như máy phân loại sản phẩm, máy đóng gói, hệ thống kho trữ và đặc biệt là hệ thống vận tải chuyên biệt. Ngoài ra, còn bao gồm tới việc kiểm soát bón phân tự động hóa (thông qua hệ thống máy tính), bón phân qua nước tưới tiêu, các biện pháp kiểm soát độ ẩm, tạo môi trường trong lành cho trồng hoa, các giống cây, rau trái vụ…

- Xây dựng chuẩn các phương thức canh tác với công nghệ và kỹ thuật canh tác đặc thù cho từng vùng sản xuất có điều kiện tự nhiên khác nhau, nhằm đảm bảo hiệu quả tối ưu của sản xuất nông sản theo vùng cũng như đảm bảo không làm ảnh hưởng tới môi trường sinh thái.

- Hữu cơ hóa đất nông nghiệp thông qua sử dụng các loại phân bón hữu cơ, phân vi sinh và thuốc trừ sâu sinh học nhằm cải tạo đất thoái hóa và nâng cao độ màu mỡ, nhờ đó sử dụng quỹ đất hiệu quả, giảm nhập khẩu phân bón và tăng xuất khẩu nông sản hữu cơ sạch.

- Lựa chọn và phổ biến kỹ thuật nông nghiệp mới cho xuất khẩu theo hướng sạch, bền vững tới hộ nông dân; cung cấp các hỗ trợ nghiên cứu gen cây trồng và giống vật nuôi cho năng suất và chất lượng cao. Phát triển các mô hình nông nghiệp hữu cơ, thay đổi tập quán sản xuất theo hướng tiến bộ, thân thiện với môi trường.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/02/2023