theo VSA 315 tương đồng với ISA 315 và COSO cũng coi KSNB theo quá trình và tiếp cận KSNB theo định hướng rủi ro.
Bên cạnh việc ban hành các chuẩn mực kiểm toán chung về KSNB, một số lĩnh vực có mức độ hội nhập sâu rộng như ngân hàng cũng đã rất tích cực ban hành văn bản pháp lý hướng dẫn về KSNB. Theo Thông tư số 44/2011/TT-NHNN (thay thế QĐ 37/2006/QĐ-NHNN) quy định về hệ thống KSNB và KTNB của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Hệ thống KSNB là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của đơn vị được xây dựng và được tổ chức thực hiện nhằm bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra. Ngân hàng là DN đi tiên phong và rất tích cực áp dụng mô hình quản trị hiện đại. Với hướng dẫn của thông tư này, đây là cơ sở nền tảng để các DN xây dựng thiết kế và vận hành được hệ thống KSNB phù hợp cho đơn vị mình. Đây cũng là lần đầu tiên thông tư nhấn mạnh đến thuật ngữ ”Kiểm toán nội bộ” đây là một chức năng giám sát đánh giá tính hữu hiệu của KSNB. Tiếp đó, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 13/2019/TT-NHNN, nhấn mạnh vai trò KTNB là tuyến phòng vệ cuối cùng, đánh giá nội bộ mức đủ vốn của ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2019/NĐ-CP về kiểm toán nội bộ, đây được coi là khung pháp lý toàn diện đầu tiên về hoạt động KTNB tại các đơn vị công, các DN niêm yết, các DN có vốn sở hữu nhà nước hoạt động theo mô hình DN – mẹ DN con. Thuật ngữ “KSNB” được đề cập trong luật kế toán 2015 (Điều 39, Luật Kế toán số 88/2015/QH13, có hiệu lực từ 01/01/2017) như sau: “KSNB là việc thiết lập và tổ chức thực hiện trong nội bộ đơn vị kế toán các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ phù hợp với quy định của pháp luật nhằm bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra”. Điều này cho thấy, Chính phủ và các bộ ban ngành cũng đã rất tích cực tạo hành lang pháp lý và khung hướng dẫn giúp các DN định hướng xây dựng thiết kế và vận hành KSNB.
Trong nghiên cứu này, NCS cho rằng KSNB là một hệ thống hay quá trình do nhà quản lý DN tổ chức thiết lập cùng với các nhân viên đơn vị thực hiện các cơ chế, chính sách, quy trình thủ tục nhằm đảm bảo thực hiện hợp lý các mục tiêu: đảm bảo sự tin cậy của của BCTC; đảm bảo sự tuân thủ các quy định và luật lệ; đảm bảo các hoạt động được thực hiện hiệu quả.
2.2.1.2. Thành phần kiểm soát nội bộ
Thành phần (hay cấu trúc) của KSNB đã được đề cập ở nhiều tài liệu và nghiên cứu trước như COSO (1992, 2013), Jokipii (2006), Sultana và Haque (2011), Länsiluoto và
cộng sự (2016).
Có thể bạn quan tâm!
- Khác Biệt Giữa Tổ Chức Cơ Học Và Tổ Chức Hữu Cơ
- Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Tính Hữu Hiệu Của Kiểm Soát Nội Bộ
- Nghiên cứu kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam - 6
- Đặc Điểm Hoạt Động Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
- Đặc Điểm Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
- Kết Quả Thảo Luận Về Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Thành Phần Và Tính Hữu Hiệu Của Kiểm Soát Nội Bộ
Xem toàn bộ 245 trang tài liệu này.
Thành phần KSNB gồm 5 yếu tố cấu thành gồm: Môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông, và giám sát.
Thứ nhất, Môi trường kiểm soát:
O'Leary (2005) với mô hình đánh giá KSNB được chuẩn hóa, tác giả xem xét đánh giá cấu trúc của KSNB đến tính hữu hiệu KSNB, đặc biệt nghiên cứu nhấn mạnh đến môi trường có ảnh hưởng lớn đến KSNB và kiểm toán theo định hướng rủi ro. Môi trường kiểm soát cấu thành văn hóa của đơn vị, nó có tác động đến ý thức kiểm soát của mọi thành viên trong đơn vị, và được coi là nền tảng cho các thành phần khác của KSNB (Millichamp, 2002; Ramos, 2004; Amudo và Inanga, 2009; Ofori, 2011; Dougles, 2011). Môi trường kiểm soát được cấu thành từ nhiều nhân tố, bao gồm: yếu tố văn hóa DN, yếu tố phân cấp quyền lực, yếu tố chất lượng của các Ủy ban kiểm toán, yếu tố tính liêm chính và đạo đức (D"Aquyla, 1998; Millichamp, 2002; Ramos, 2004). Theo Rae và Subramaniam (2008) cho rằng vai trò của môi trường kiểm soát là cung cấp nền tảng quan trọng cho các hoạt động vì các giá trị của tổ chức không thể vượt lên trên sự liêm chính và đạo đức của những người tạo ra, quản lý và giám sát chúng. Vậy, môi trường kiểm soát là tập hợp các tiêu chuẩn, quy trình, cấu trúc làm nền tảng cho việc thiết kế và vận hành KSNB trong một đơn vị. Môi trường kiểm soát hiệu quả có tác động lớn đến toàn bộ KSNB. Việc KSNB được thực hiện hiệu quả hay kém hiệu quả chủ yếu phụ thuộc vào nền tảng đó; do đó, đây là thành phần quan trọng nhất để cung cấp nền tảng vững chắc cho việc thiết kế và vận hành hệ thống KSNB của đơn vị. Môi trường kiểm soát bao gồm các yếu tố sau đây:
- Tính trung thực và các giá trị đạo đức: Ứng xử có đạo đức và tính trung thực của toàn thể nhân viên chính là văn hóa của tổ chức. Các chính sách, các quy định về tính trung thực và giá trị đạo đức thể hiện điều mà nhà quản lý mong muốn. Nó là yếu tố quan trọng trong môi trường kiểm soát vì nó tác động đến việc thiết kế, thực hiện và giám sát các yếu tố khác của KSNB.
- Cam kết năng lực: Năng lực phản ánh kiến thức và kỹ năng để hoàn thành một nhiệm vụ nhất định. Kiến thức và kỹ năng cần có đối với từng nhiệm vụ phụ thuộc vào sự xét đoán của nhà quản trị và các mục tiêu của DN, về chiến lược kế hoạch đạt được mục tiêu đó. Nhà quản lý cần xác định rõ yêu cầu về năng lực cho một công việc nhất định và cụ thể hóa nó thành các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng.
- HĐQT và Ủy ban kiểm toán: Môi trường kiểm soát chịu ảnh hưởng đáng kể bởi HĐQT và Ủy ban kiểm toán. Tính hữu hiệu của nhân tố này phụ thuộc vào sự độc lập của HĐQT và Ủy ban kiểm toán với Ban điều hành, kinh nghiệm và vị trí của các thành viên, mức độ tham gia, giám sát và các hành động của HĐQT với DN. Bên cạnh
đó, nó còn phụ thuộc vào sự phối hợp HĐQT, Ủy ban kiểm toán và nhà quản lý trong việc giải quyết các khó khăn liên quan đến kế hoạch. Ngoài ra, ảnh hưởng đến môi trường kiểm soát còn đến từ sự phối hợp giữa HĐQT và Ủy ban kiểm toán với KTNB và kiểm toán độc lập.
- Triết lý và phong cách điều hành của các nhà quản lý: Triết lý và phong cách điều hành của các nhà quản lý tác động đến cách thức DN được điều hành. Ngoài ra, nó còn thể hiện qua thái độ, quan điểm của người quản lý về việc lập và trình bày BCTC, lựa chọn các chính sách kế toán, các ước tính kế toán, phân công nhiệm vụ cho nhân viên.
- Cơ cấu của tổ chức: Nó cung cấp khuôn khổ trong đó các hoạt động của DN được lập kế hoạch, thực hiện, kiểm soát và giám sát. Thiết lập cơ cấu tổ chức được coi là thích hợp, cần xác định được các nội dung: xác định được quyền hạn và trách nhiệm đối với từng hoạt động, các cấp bậc để báo cáo trong đơn vị. Mỗi DN có cơ cấu tổ chức phù hợp với nhu cầu riêng của mình nên không có khuôn mẫu chung duy nhất.
- Phân chia quyền hạn và trách nhiệm: Là việc xác định mức độ tự chủ, quyền hạn của từng cá nhân hay từng nhóm trong việc đề xuất và giải quyết vấn đề, trách nhiệm báo cáo đối với các cấp có liên quan. Việc phân định thường thể hiện qua chính sách trong đó mô tả kiến thức và kinh nghiệm của những nhân viên chủ chốt, nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến các hoạt động kinh doanh. Nhà quản lý thường có xu hướng gia tăng quyền lực của nhân viên cấp dưới để thuận tiện trong công việc thông qua việc ủy quyền. Ưu điểm của việc ủy quyền là làm cho cơ cấu của tổ chức của đơn vị trở nên đơn giản, thúc đẩy sự sáng tạo, tăng tính chủ động cho nhân viên, gia tăng sức cạnh tranh và thỏa mãn các yêu cầu của các đối tác. Nhược điểm của việc ủy quyền là đòi hỏi năng lực cá nhân và trách nhiệm của nhân viên phải gia tăng để có thể đáp ứng và vì vậy yêu cầu nhà quản lý phải gia tăng thêm sự giám sát đối với việc ủy quyền đó.
- Chính sách nhân sự: là thông điệp của DN về các yêu cầu đối với tính chính trực, hành vi đạo đức và năng lực mà DN mong đợi từ nhân viên. Chính sách này biểu hiện trong thực tế thông qua việc tuyển dụng, hướng nghiệp, đào tạo, đánh giá, tư vấn, khen thưởng và kỷ luật.
Thứ hai, Đánh giá rủi ro:
Trong 5 thành phần KSNB, đánh giá rủi ro đều được nhấn mạnh trong nghiên cứu mối quan hệ với tính hữu hiệu KSNB (COSO, 1992; Jokipii, 2006; Sultana và cộng sự, 2011; Amudo và Inanga, 2009; Karagiorgos và cộng sự, 2011). Lannoye (1999) mỗi đơn vị sẽ thiết kế các phương pháp quản lý rủi ro sao cho đảm bảo được tính hợp lý và xem xét cân đối giữa chi phí và lợi ích. Khi rủi ro xảy ra, rất có thể đơn vị sẽ không đạt được mục tiêu đề ra. Để quản lý rủi ro hoặc giảm thiểu rủi ro nhà quản lý cần có quản
trị rủi ro để đối phó với thay đổi xảy ra (Walker, 1999) và do đó nó giúp đơn vị tránh không đạt được các mục tiêu chính của đơn vị. Đánh giá rủi ro là quá trình phát hiện, đánh giá và xác định cách thức thành công của những việc này (Gamage và cộng sự, 2014; Ratcliffe và Landes, 2009). Vậy, đánh giá rủi ro là quá trình nhận dạng và phân tích những rủi ro ảnh hưởng đến việc đạt được mục tiêu, từ đó có thể quản trị được rủi ro. Khi đánh giá rủi ro đe dọa mục tiêu của đơn vị cần xem xét trong mối liên hệ với các ngưỡng chịu đựng rủi ro được thiết lập. Mỗi đơn vị luôn phải đối phó với hàng loạt rủi ro từ bên trong lẫn bên ngoài. Rủi ro được định nghĩa là khả năng một sự kiện sẽ xảy ra có thể tác động tiêu cực đến việc đạt được mục tiêu. Xác định mục tiêu không phải là một nhân tố của KSNB, nhưng nó là một điều kiện tiên quyết để KSNB có thể thực hiện được.
* Xác định mục tiêu: Mặc dù các mục tiêu của một tổ chức rất đa dạng nhưng nhìn chung, có thể phân thành 3 loại như sau: Mục tiêu hoạt động; Mục tiêu BCTC; Mục tiêu tuân thủ. Những mục tiêu nêu trên có mối quan hệ và hỗ trợ lẫn nhau. Các mục tiêu chung cho toàn đơn vị khi xây dựng cần xem xét để thích hợp với năng lực và tình hình hoạt động của đơn vị đồng thời phù hợp với từng bộ phận trong đơn vị. Do tác động của các yếu tố bên ngoài mà đơn vị khó kiểm soát được nên đơn vị chỉ có thể cân nhắc để đạt được các mục tiêu phù hợp trong các mục tiêu kể trên, tùy theo từng thời kỳ.
* Rủi ro: Dựa vào mục tiêu đã được thiết lập, nhà quản lý cần nhận dạng và phân tích rủi ro, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp để quản trị rủi ro. Quá trình nhận dạng và phân tích rủi ro được tiến hành liên tục và lặp đi lặp lại.
- Nhận dạng rủi ro: Hoạt động của đơn vị có thể gặp rủi ro bên trong hoặc bên ngoài. Nó ảnh hưởng đến việc đạt mục tiêu. Các mức độ rủi ro cần được nhận dạng bao gồm:
+ Rủi ro ở mức độ toàn đơn vị: Đây có thể là những rủi ro ở bên trong nội tại của đơn vị hoặc bên ngoài. Sự thành công của công tác đánh giá rủi ro phụ thuộc vào việc nhận dạng các rủi ro bên trong và bên ngoài DN. Từ những rủi ro được nhận dạng, nhà quản lý đánh giá tầm quan trọng của chúng và nguyên nhân phát sinh rủi ro.
+ Rủi ro ở mức độ hoạt động: Đây là rủi ro ở các hoạt động kinh doanh hay chức năng của đơn vị. Khi nhận dạng rủi ro ở mức độ hoạt động tốt đóng góp vào việc nhận dạng rủi ro ở mức độ toàn DN một cách thích hợp.
- Phân tích rủi ro: Phân tích rủi ro là công việc được thực hiện khi đã nhận dạng được rủi ro. Các bước thường được tiến hành khi phân tích rủi ro bao gồm:
- Xác định mức độ quan trọng của rủi ro.
- Xác định xác suất xảy ra rủi ro.
- Tìm ra cách thức để quản trị rủi ro.
Sau khi phân tích rủi ro, cần tập trung xử lý các rủi ro có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh và có khả năng xảy ra cao. Do những hạn chế vốn có của KSNB nên cần phải nhận thức việc có thể rủi ro vẫn phát sinh sau khi thực hiện các biện pháp kiểm soát chúng.
Thứ ba, Hoạt động kiểm soát:
Jenkinson (2008) cho rằng hoạt động kiểm soát được định nghĩa là các chính sách và thủ tục mà nhà quản lý thiết kế ra để đảm bảo rằng các chỉ thị của nhà quản lý được thực hiện một cách triệt để. Nhà quản lý nên thiết lập các hoạt động kiểm soát để hoàn thành hiệu quả các mục tiêu và sứ mệnh của tổ chức. Walker (1999) hoạt động kiểm soát xảy ra ở mọi cấp độ và chức năng của đơn vị. Amudo và Inanga (2009) coi việc ủy quyền, phân tách nhiệm vụ, xác minh trước khi thanh toán, kiểm soát quyền truy cập vào các nguồn lực, điều chỉnh, xem xét hoạt động và giám sát là các hoạt động kiểm soát trong bất kỳ tổ chức nào. Để thông tin đầy đủ cũng như sự ủy quyền được xác thực của các giao dịch thì một loạt các hoạt động kiểm soát cần phải được thực hiện (Ramos, 2004). Do đó, hoạt động kiểm soát là tập hợp các chính sách và thủ tục nhằm đảm bảo thực hiện các chỉ thị của nhà quản lý để giảm thiểu rủi ro đe dọa đến việc đạt được mục tiêu của đơn vị. Hoạt động kiểm soát tồn tại ở mọi cấp độ tổ chức trong đơn vị, ở các giai đoạn khác nhau của quy trình kinh doanh và bao gồm cả các kiểm soát đối với công nghệ. Trong một đơn vị, nhà quản lý có thể thiết kế và áp dụng nhiều hoạt động kiểm soát khác nhau, chẳng hạn:
* Phân loại theo mục đích, hoạt động kiểm soát được chia thành 3 loại:
- Kiểm soát phòng ngừa: Đây là hoạt động kiểm soát nhằm phòng ngừa, giảm thiểu các sai phạm xảy ra làm ảnh hưởng các mục tiêu của DN cần đạt được.
- Kiểm soát phát hiện: Đây là hoạt động kiểm soát nhằm phát hiện kịp thời các sai phạm đã được thực hiện.
- Kiểm soát bù đắp: Đây là hoạt động kiểm soát nhằm tăng cường hoặc thay thế các hoạt động kiểm soát đã kém hiệu quả.
* Phân loại theo chức năng, hoạt động kiểm soát được chia thành:
- Soát xét của nhà quản lý cấp cao: “là việc các lãnh đạo cao cấp trong đơn vị thực hiện các soát xét như: đối chiếu kết quả thực tế với kế hoạch, dự toán, với kỳ trước hay với các đối thủ cạnh tranh”.
- Quản trị hoạt động: “là việc các nhà quản lý cấp trung gian soát xét hiệu quả so với dự toán hoặc kế hoạch của từng bộ phận mình quản lý”.
- Phân chia trách nhiệm hợp lý: “là cách thức để nhà quản lý sử dụng để làm giảm thiểu các cơ hội hoặc điều kiện để các sai phạm có thể xảy ra hoặc phát hiện ra các sai phạm trong quá trình tác nghiệp”. Để đảm bảo việc phân chia trách nhiệm một cách hợp lý cần đáp ứng các yêu sau đây:
+ Phân công trách nhiệm cụ thể ở từng giai đoạn khác nhau trong một quy trình công việc cho nhiều nhân viên khác nhau.
+ Đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm giữa các chức năng như: chức năng phê duyệt nghiệp vụ, chức năng kế toán, chức năng bảo vệ tài sản.
- Kiểm soát quá trình xử lý thông tin: “là hoạt động kiểm soát cần được thực hiện nhằm đảm bảo tính chính xác, tính đầy đủ và phê chuẩn đúng đắn cho các nghiệp vụ diễn ra trong DN”. Kiểm soát quá trình xử lý thông tin bao gồm kiểm soát chung và kiểm soát ứng dụng.
- Kiểm soát vật chất: “là các hoạt động kiểm soát nhằm đảm bảo cho tài sản của DN như máy móc, nhà xưởng, tiền bạc, hàng hóa, cổ phiếu và các tài sản khác được bảo vệ một cách chặt chẽ ”. Ngoài ra, việc tiến hành kiểm kê tài sản vào cuối kỳ, đối chiếu số liệu kiểm kê và số sổ kế toán cũng được coi là hoạt động kiểm soát vật chất.
- Phân tích rà soát: “là việc so sánh giữa kết quả thực hiện với số liệu dự toán hay giữa các thông tin tài chính và phi tài chính nhằm phát hiện ra các biến động bất thường để nhà quản lý có các biện pháp chấn chỉnh kịp thời”.
Thứ tư, Thông tin và truyền thông:
Hevesi (2005), Douglas (2011), Gamage và Low Lock (2014) cho rằng thông tin và truyền thông là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả của hệ thống KSNB. Tất cả các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng hệ thống thông tin và truyền thông được thiết kế tốt có tác động tích cực đến hiệu quả của KSNB trong DN. Thông tin phải được xác định một cách đáng tin cậy từ cả bên trong và bên ngoài DN, được những người có chức năng thông báo và xử lý kịp thời. Thông tin là cần thiết để đơn vị thực hiện trách nhiệm KSNB nhằm hỗ trợ việc đạt được các mục tiêu của mình. Việc trao đổi thông tin diễn ra cả bên trong, bên ngoài và cung cấp cho tổ chức thông tin cần thiết để thực hiện các hoạt động KSNB hàng ngày. COSO (2013) cho rằng giao tiếp giúp nhân viên hiểu được trách nhiệm KSNB và tầm quan trọng của họ đối với việc đạt được các mục tiêu của đơn vị. Do đó, nếu hệ thống thông tin liên lạc được thiết kế và vận hành tốt sẽ giúp
người lao động hiểu và thực hiện đúng nhiệm vụ của mình, góp phần nâng cao tính hữu hiệu KSNB trong đơn vị.
* Thông tin: Thông tin rất cần thiết cho việc thực thi trách nhiệm kiểm soát trong đơn vị nhằm hỗ trợ cho việc đạt được mục tiêu đã đề ra. Nhà quản lý thu thập, tạo lập và sử dụng các thông tin thích hợp và có chất lượng từ các nguồn bên trong lẫn bên ngoài đơn vị. Để đảm bảo chất lượng thông tin cần đáp ứng các yêu cầu sau:
+ Thông tin phải thích hợp với yêu cầu ra quyết định của nhà quản lý.
+ Thông tin phải đảm bảo tính kịp thời cho các quyết định và hành động của nhà quản lý.
+ Thông tin phải luôn luôn được cập nhật các số liệu mới nhất đến thời điểm hiện tại.
+ Thông tin phải chính xác và dễ dàng truy cập.
* Truyền thông: Truyền thông là quá trình cung cấp, chia sẻ và trao đổi thông tin. Truyền thông bên trong đóng vai trò là phương tiện giúp truyền tải thông tin khắp trong đơn vị. Truyền thông bên ngoài giúp truyền tải thông tin thích hợp từ bên ngoài vào đơn vị đồng thời cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài theo yêu cầu của họ. Thông thường, một hệ thống truyền thông của đơn vị bao gồm các bộ phận sau đây:
- Cách thức truyền thông bên trong nội bộ đơn vị: Đối với bên trong đơn vị thì cách thức truyền thông thể hiên việc truyền đạt thông tin từ nhà quản lý đến từng nhân viên thực hiện nhiệm vụ và cách thức phản hồi các ý kiến đề xuất của các nhân viên cho nhà quản lý đơn vị. Đơn vị phải đảm bảo các kênh thông tin từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên để đảm bảo rằng hoạt động truyền thông trong đơn vị được xuyên suốt bằng nhiều hình thức khác nhau. Thêm vào đó, việc trao đổi thông tin hàng ngày giữa các cá nhân hay bộ phận trong DN cũng đảm bảo cho việc truyền thông bên trong nội bộ được diễn ra thông suốt.
- Cách thức truyền thông ra bên ngoài đơn vị: Đây chính là cách thức đưa các thông tin từ đơn vị cho các đối tượng ngoài DN như nhà cung cấp, ngân hàng, cơ quan quản lý nhà nước, khách hàng cũng như thu thập, xử lý các thông tin của các đối tượng bên ngoài để cung cấp cho nhà quản lý đơn vị có những quyết định đúng đắn kịp thời.
Thông tin và truyền thông phải đảm bảo rằng mọi cá nhân, bộ phận trong đơn vị và các đối tượng liên quan bên ngoài phải được kết nối và đảm bảo thông suốt thông tin để có thể thực hiện nhiệm vụ của từng đối tượng đó. Ngày nay, thông tin và truyền thông đóng một vai trò quan trọng, giúp DN đạt được các mục tiêu của mình đề ra.
Thứ năm, Giám sát:
Giám sát là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của KSNB trong bất kỳ tổ chức nào. Giám sát là thành phần thứ năm đảm bảo tất cả các thành phần của KSNB tiếp tục hoạt động hiệu quả (Ayagre và cộng sự, 2014). Đánh giá hiệu suất của KSNB phải có các hoạt động giám sát (Springer, 2004), các cơ chế tích cực của KSNB phải được áp dụng để đạt được hiệu suất tốt hơn theo thời gian (Ayagre và cộng sự, 2014). Muhota (2005) cho rằng giám sát là công việc thường xuyên để khẳng định rằng các thủ tục kiểm soát được thực hiện theo đúng yêu cầu đề ra. Mục đích của việc giám sát là để xác định liệu KSNB có được thiết kế đầy đủ, thực hiện đúng và hiệu quả hay không. KSNB được thiết kế đầy đủ và thực hiện đúng nếu tất cả năm thành phần KSNB (môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin và truyền thông và giám sát) hiện diện và hoạt động như thiết kế (Ofori, 2011). Giám sát là thành phần cuối cùng của KSNB, là một quá trình đánh giá chất lượng của KSNB theo thời gian. Ngoài ra, giám sát là việc đánh giá các sự kiện và giao dịch của một tổ chức để đánh giá chất lượng hoạt động trong suốt thời kỳ và để quyết định xem các biện pháp kiểm soát có hiệu quả hay không. Simmons (1995) cho rằng giám sát có thể được thực hiện thông qua các hoạt động liên tục hoặc đánh giá riêng biệt. Calomiris và Khan (1991) cho rằng một hệ thống giám sát tốt thì phải chỉ ra những thiếu sót của KSNB còn mắc phải và phản hồi cho các nhà quản trị cấp cao để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời. Vậy, KSNB cần được giám sát để đảm bảo rằng năm yếu tố cấu thành của KSNB đang hoạt động hữu hiệu. Giám sát là quá trình đánh giá chất lượng của KSNB theo thời gian. Giám sát bao gồm giám sát thường xuyên và giám sát định kỳ. Giám sát chính là cơ sở quan trọng giúp đơn vị nhận biết về tính hữu hiệu của KSNB.
* Giám sát thường xuyên: Các hoạt động giám sát thường xuyên gắn kết vào hoạt động thường nhật thì rất đa dạng như đối chiếu, chỉnh hợp và các hoạt động khác. Sau đây là một số ví dụ về hoạt động giám sát thường xuyên:
+ Báo cáo hoạt động và BCTC: dựa trên báo cáo này, những khác biệt hay chênh lệch đáng kể so với dự toán hay kế hoạch sẽ được phát hiện một các nhanh chóng.
+ Thông tin từ các đối tác bên ngoài sẽ làm rõ thêm các thông tin thu thập bên trong.
+ Cách giám sát tốt nhất cho KSNB và giúp xác định các khiếm khuyết của hệ thống là tạo ra bộ máy tổ chức hợp lý song hành với công tác giám sát thường xuyên.
- Việc đối chiếu giữa số liệu ghi chép về tài sản trên sổ sách với số liệu tài sản thực tế cũng là thủ tục giám sát thường xuyên.
- Các kiến nghị về các biện pháp cải tiến KSNB của KTNB và kiểm toán độc lập.