Các Chính Sách Của Eu Đối Với Nông Sản Nhập Khẩu


phẩm hữu cơ vì an toàn thực phẩm là ưu tiên hàng đầu trong tất cả các ngành thực phẩm của EU. Do vậy, EU thường yêu cầu nhà xuất khẩu của các nước cung cấp các giấy chứng nhận về an toàn thực phẩm như BRC, IFS, FSSC22000 và SQF

Người tiêu dùng ở các nước EU rất chú trọng đến các khía cạnh môi trường và xã hội liên quan đến sản xuất hàng hóa do vậy thị phần hàng thực phẩm thân thiện với môi trường trên cả 2 phương diện là giảm lượng hóa chất trong thực phẩm và không gây ô nhiễm môi trường đã tăng lên nhanh chóng thời gian qua. Chẳng hạn các loại bao bì có khả năng tái sinh và những sản phẩm thân thiện với môi trường luôn dành được sự ưu ái của người tiêu dùng châu Âu, hay các loại giấy chứng nhận phổ biến nhất hiện nay là UTZ, R.A, nhãn hiệu thương mại công bằng (Fairtrade labelling) và những sản phẩm hữu cơ. Các sản phẩm hữu cơ chú trọng đến việc sử dụng đất và đầu vào; sản phẩm thương mại công bằng Fair Trade tập trung cụ thể vào việc cải thiện điều kiện sống của nông dân ở các nước đang phát triển; sản phẩm có chứng nhận của Liên minh rừng nhiệt đới – Rainforest Alliance, chương trình phát triển bền vững tập trung vào các vấn đề môi trường và xã hội,…là những sản phẩm được đánh giá cao tại EU

Bên cạnh đó những người tiêu dùng EU thì khá khắt khe trong việc lựa chọn hàng hóa xuất phát từ quan điểm đạo đức: Hàng hóa được sản xuất với sự phân chia thu nhập công bằng cho người lao động, trong những điều kiện lao động phù hợp, không lạm dụng trẻ em, …. cũng là mối quan tâm lớn của thị trường. Đối với thực phẩm, CSR đóng vai trò ngày càng quan trọng cũng như phải đảm bảo minh bạch hóa chuỗi cung ứng và chia sẻ thông tin. Vì vậy, các nhà nhập khẩu EU luôn mong muốn tìm kiếm được các đối tác có khả năng đảm bảo chất lượng và nguồn cung cấp sản phẩm.

2.1.1.3. Các chính sách của EU đối với nông sản nhập khẩu

Tất cả sản phẩm nhập khẩu vào EU phải thỏa mãn điều kiện của “Hệ thống tiêu chuẩn hóa châu Âu”. Việc xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật của EU do ba cơ quan đảm nhiệm: Ủy ban Tiêu chuẩn hóa kỹ thuật điện tử châu Âu, Ủy ban tiêu chuẩn hóa châu Âu, Viện Tiêu chuẩn viễn thông châu Âu. Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật


làm rào cản thương mại phi thuế quan của EU được chia thành năm nhóm: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động. Tại Nhật Bản, Luật Tiêu chuẩn nông nghiệp quy định các sản phẩm: đồ uống, thực phẩm chế biến, dầu ăn và mỡ, các sản phẩm nông, lâm, thủy sản chế biến nhập khẩu vào Nhật Bản phải có dấu tiêu chuẩn “Japan Agricultural Standard - JAS27”. Luật Vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản áp dụng cho tất cả các hàng hóa có liên quan đến thực phẩm, các loại gia vị, dụng cụ chứa thực phẩm, máy móc chế biến thực phẩm. Điều này khiến các quốc gia (trong đó có Việt Nam) khi xuất khẩu nông sản vào thị trường Nhật Bản gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm.

Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của EU. Trên thị trường EU, quyền lợi của người tiêu dùng được đặc biệt quan tâm và bảo vệ. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng một mặt EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có hệ thống báo động nhanh giữa các thành viên. Các sản phẩm chỉ có thể bán ở thị trường này với điều kiện phải đảm bảo tiêu chuẩn an toàn chung của EU, các luật và định chuẩn quốc gia được sử dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản phẩm được sản xuất từ các nước có điều kiện chứa đạt mức an toàn ngang với tiêu chuẩn EU. Mặt khác EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không cho nhập khẩu các sản phẩm đánh cắp bản quyền. Ngoài ra EU còn đưa ra các chỉ thị kiểm soát từng nhóm hàng cụ thể về chất lượng và an toàn đối với người tiêu dùng. Đối với nhóm mặt hàng nông sản khi nhập khẩu vào thị trường EU, hàng hóa phải đảm bảo an toàn vệ sinh cao, chất lượng phải đảm bảo chất lượng chung của EU, đặc biệt những sản phẩm này có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

2.1.2. Các yếu tố trong nước

2.1.2.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia giai đoạn 2011 - 2020

Theo chiến lược phát triển các thời kỳ đến 2010 và 2020, kinh tế xã hội cả nước sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh theo hướng CNH – HĐH để vượt khỏi giới hạn của nhóm các quốc gia có nền kinh tế chậm phát triển. Dự báo trên bình diện cả nước, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt trên 7% cho giai đoạn 2006 - 2010, tuy


nhiên năm 2008 kinh tế quốc tế và trong nước bị ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính nên GDP cả nước có thể không đạt chỉ tiêu trên, giai đoạn 2011 - 2020 GDP tăng khoảng 7 - 8% trong đó khu vực kinh tế nông lâm thuỷ sản tăng 3,5 - 4%, dịch vụ 7 - 8%, công nghiệp tăng 9%.

2.1.2.2. Đặc trưng của ngành nông nghiệp Việt Nam

Mặc dù kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, nhưng ngành nông nghiệp vẫn luôn là thế mạnh của nước ta và là cơ sở để phát triển những ngành công nghiệp chế biến.

Năm 2021 sản xuất nông nghiệp có mức tăng trưởng tương đối tốt, tháng 5 giá trị xuất khẩu nhóm nông sản chính ước đạt 1,75 tỷ USD, lũy kế 5 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu nhóm nông sản chính ước đạt 7,78 tỷ USD, tăng 13,0%. Sản xuất nông sản ở nước ta ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đã có bước chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu ngành đó là tăng dần tỷ trọng nông sản chế biến, áp dụng rộng rãi khoa học công nghệ vào trồng trọt sản xuất, để ngày càng tăng chất lượng hàng hóa và giá trị hàng nông sản.

Nhờ chú trọng đầu tư chế biến sau thu hoạch, giá trị sản phẩm đã được nâng cao, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của công nghiệp chế biến nông sản đạt khoảng 5-7%/năm. Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng mạnh, bình quân tăng khoảng 8-10%/năm. Hiện nay, cả nước đã hình thành và tương đối phát triển hệ thống công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản với trên 7.500 cơ sở quy mô lớn và hàng vạn cơ sở chế biến nông sản nhỏ, lẻ. Tỷ lệ nông sản chế biến xuất khẩu chiếm tới 45% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản; Về khoa học công nghệ, hiện nay nhiều khâu sản xuất nông nghiệp có mức độ cơ giới hóa cao như ở khâu làm đất lúa vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng đạt 100%, thu hoạch lúa đạt trên 90%; Khâu chăm sóc, phun thuốc bảo vệ thực vật cây hàng năm đạt trên 70%. Do được chú trọng theo hướng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng sản xuất nông sản và sản phẩm đã chế biến, nên các


mặt hàng nông sản có mức tăng trưởng tương đối tốt như là: rau quả đạt 15,1%/năm, điều nhân đạt 5%/năm, gạo đạt 8,9%/năm, cao su đạt 11,3%/năm.

Chất lượng nguồn lao động trong sản xuất nông nghiệp. Trong xu thế toàn cầu hóa, chất lượng nguồn lao động là nhân tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2020, lực lượng lao động của Việt Nam chiếm gần 60% tổng dân số trong đó riêng khu vực nông thôn chiếm khoảng trên 60%. Tuy số lượng lao động đông song chất lượng lao động còn rất hạn chế.

Năm 2020, nguồn nhân lực khối ngành nông nghiệp sẽ thiếu khoảng 3,2 triệu lao động qua đào tạo. Việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao để phát triển nền nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu cấp bách và thách thức lớn của nông nghiệp, nông thôn. Mặc dù Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển nông nghiệp nhưng phần lớn nguồn nhân lực làm việc trong khu vực này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, lao động ngành nông nghiệp tại Việt Nam đang thiếu khá nhiều kỹ năng về quản lý, quản trị, kết nối trong sản xuất và tiêu thụ, tính tuân thủ quy trình sản xuất nông sản sạch. Điều này dẫn tới giá trị của nông sản thấp, chất lượng chưa cao, gây khó khăn trong việc tiêu thụ, càng khó mở rộng thị trường ra nước ngoài. Chất lượng lao động nông nghiệp thấp sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng hàng hóa xuất khẩu từ đó làm giảm giá trị sản xuất và xuất khẩu nông sản. Cho nên làm sao để tăng chất lượng lao động ngành nông nghiệp luôn là trăn trở của mỗi quốc gia. Trước hết, cần công nhận tính đa dạng của ngành nông nghiệp. Đưa hệ thống khuyến nông và hệ thống giáo dục nghề nghiệp lại gần nhau hơn. Đồng thời, nâng cao cơ hội cho các hoạt động phát triển kỹ năng hiện tại và đưa vào khung chính thức để việc học từ khuyến nông có thể được cấp chứng chỉ ở một số điểm nếu có thể. Các cơ hội để nâng cao mức độ cấp chứng chỉ cho công nhân nông nghiệp và quản lý nông nghiệp thông qua hệ thống công nhận kỹ năng. Tăng cường hợp tác và điều phối giữa Bộ NN&PTNN và Bộ LĐTB&XH trong việc lên kế hoạch và phát triển đào tạo nghề cho ngành nông nghiệp


Cơ sở hạ tầng nông nghiệp. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói chung và nông sản nói riêng. Trong những năm qua, cùng với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước là hàng loạt các công trình giao thông, trạm vận chuyển, kho, bến bãi,… được xây dựng và hoàn thành. Hệ thống ngân hàng phát triển mạnh và khá năng động, đáp ứng tốt các dịch vụ khi doanh nghiệp có nhu cầu. Đây được xem là nhân tố thuận lợi giúp quá trình lưu thông, vận chuyển nông sản giữa Việt Nam và đối tác được nhanh chóng và dễ dàng hơn. Tính đến hết năm 2020, cả nước có 492.892/570.448 km đường nhựa, chiếm 86,6% chiều dài toàn bộ mạng lưới đường bộ, cũng có 220.000/492.892 km đường giao thông nông thôn được cứng hoá. Tuy nhiên, việc đầu tư nhìn chung còn dàn trải, chất lượng các công trình giao thông ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập. Thêm vào đó, tình trạng khai thác sử dụng các bến bãi chưa thật sự hiệu quả. Nếu so sánh với các đối thủ trong cùng khu vực như Thái Lan, Indonesia,… thì hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam không phải là kém nhất song vẫn còn một khoảng cách khá xa. Điều này gây ra những ảnh hưởng nhất định đến chất lượng nông sản, qua đó làm giảm khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.

Trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu. Đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng nông sản nhằm đáp ứng trình độ ngày càng cao của người tiêu dùng. Theo phân tích gần đây của Ngân hàng Thế giới ở 38 quốc gia và khu vực, tiến bộ công nghệ đóng góp 50% vào tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển, hơn 30% ở các nước đang phát triển.

2.1.2.3. Biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ gia tăng tần suất và mức độ của các hiện tượng hạn hán, lụt lội, bão tố; nguy cơ tăng cao bệnh dịch cho cây trồng vật nuôi. Nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản trong nước đòi hỏi tăng về số lượng, do tăng dân số; đồng thời yêu cầu cao về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.


2.1.2.4. Những thay đổi trong thị trường tiêu thụ nông sản trong nước

Trong nước dân số sẽ lên tới 100 triệu người, do kinh tế tăng trưởng với tốc độ bình quân 6,5 – 7%/năm, nhu cầu tiêu dùng nông sản thực phẩm sẽ tăng mạnh. Do vậy, thị trường nông, lâm, thuỷ sản trong nước những năm tới sẽ tăng khá nhanh và đòi hỏi chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặt khác, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản sẽ được đầu tư phát triển, đòi hỏi khối lượng lớn nguyên liệu chất lượng cao. Những yếu tố này vừa là động lực, vừa là cơ sở để bố trí lại quy hoạch sản xuất nông, lâm, thuỷ sản trong nhiều năm tới.

2.1.3. Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường EU

2.1.3.1. Kim ngạch và giá trị xuất khẩu nông sản sang EU

EU là thị trường lớn thứ 3 với tỷ trọng XK dao động từ 11%-19% tổng kim ngạch XKNS của Việt Nam và giá trị XK khoảng trên 3 tỷ USD/năm. Việt Nam đã XKNS tới hầu hết thành viên của EU, trong đó thị trường XK tập trung chủ yếu vào một số nước gồm Đức, Hà Lan, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ, Pháp, Balan. Hàng nông sản của Việt Nam chiếm 2,2% thị trường NK nông sản của EU. Năm 2020, do tác động của đại dịch COVID-19, KNXK nông sản của Việt Nam sang thị trường EU chỉ đạt 2,91 tỷ USD, giảm 4,7% so với năm 2019. Những sản phẩm XK chính sang EU bao gồm bao gồm: cà phê, trái cây, hạt tiêu, hạt điều. Tỷ trọng XK của nhóm này chiếm hơn 80% kim ngạch XKNS của Việt Nam sang EU.

Tình hình XK một số hàng nông sản chính sang EU như sau:

Cà phê: Là nhóm hàng nông sản có kim ngạch XK sang EU lớn nhất của Việt Nam, chiếm 8,5% tổng KNNK của EU và gần 40% lượng cà phê XK của Việt Nam. Giá trị XK cà phê XK sang EU dao động từ 1,0-1,5 tỉ USD/năm giai đoạn 2016- 2020. Cà phê XK sang EU chủ yếu là cà phê nguyên liệu, chiếm hơn 90% tổng giá trị XK. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cà phê nguyên liệu sang thị trường EU trong đó sản phẩm cà phê có mã HS. 090111 - Cà phê chưa rang và khử caffein là chủng loại được xuất khẩu nhiều nhất sang EU. Mặt hàng này cũng có thị phần khả quan trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU từ thế giới (15,8%). Mã HS. 090112 đứng thứ 2 về kim ngạch nhưng lại là mặt hàng có thị phần tốt nhất tại EU.


Cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU chủ yếu tập trung vào một số đối tác chủ chốt gồm Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bỉ, Vương Quốc Anh, Pháp, Hà Lan, Ba Lan. Trong đó Đức luôn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của cà phê Việt Nam trong EU với tỷ trọng trung bình hơn 30%/năm và kim nghạch xuất khẩu đạt hơn 500 triệu đô la vào năm 2019. Đức cũng chính là cửa ngõ trung chuyển quan trọng cho mặt hàng cà phê Việt Nam xuất khẩu sang thị trường khác ở EU.

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu một số hàng nông sản của Việt Nam sang EU (2016 – 2020)

Đơn vị: triệu USD


Mặt hàng

2016

2017

2018

2019

2020

Rau củ

14,3

15,0

12,9

15,2

14,9

Trái cây

769,6

977,9

954,7

896,1

861,3

Điều nhân

721,3

920,1

887,3

823,5

789,0

Cà phê

1.375,0

1.528,7

1.485,1

1.249,4

1.094,5

Chè

6,2

6,9

6,6

5,0

3,0

Hạt tiêu

241,6

178,2

119,7

112,6

97,8

Gạo

18,0

11,4

15,6

31,9

43,4

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU - 7


Nguồn: UN Comtrade (2020) https://comtrade.un.org/data


Hạt tiêu: Kim ngạch NK của EU từ Việt Nam khoảng 40 nghìn tấn mỗi năm, chiếm 23% tổng lượng XK của Việt Nam và đáp ứng 53% nhu cầu của EU. Việt Nam XK chủ yếu là tiêu hạt (chiếm 90% tổng lượng XK) và chỉ 10% tiêu đã qua chế biến. Tuy nhiên, giá trị XK hạt tiêu có xu hướng giảm mạnh trong giai đoạn 2016 - 2020, từ mức 241,6 triệu USD năm 2016 còn 97,8 triệu USD vào năm 2020. Sự sụt giảm này chủ yếu là do giá giảm, mặc dù lượng XK tăng.

Hạt điều: EU hiện nay là thị trường lớn thứ 2 của hạt điều Việt Nam, chiếm trên 23% trong tổng lượng và tổng kim ngạch. Kim ngạch XK hạt điều khá ổn định trong khoảng từ 700-900 triệu USD/năm. Năm 2020, KNXK đạt 112 tấn, tương


đương 789 triệu USD, tăng 5,76% về lượng nhưng giảm 4,19% về giá trị so với năm 2019. Các quốc gia NK chính của VN là Hà Lan, Đức, Pháp.

Rau quả: EU là thị trường XK lớn thứ tư của Việt Nam nhưng rau quả của Việt Nam cũng mới chiếm thị phần rất nhỏ (khoảng 1%) so với nhu cầu NK rau quả của EU. Rau quả Việt Nam chủ yếu XK sang EU ở dạng tươi và sơ chế. Trái cây là nhóm sản phẩm có kim ngạch XK cao nhất. Các mặt hàng chủ lực gồm: dứa, thanh long, cơm dừa, chôm chôm và xoài. Năm 2020, xuất khẩu rau quả sang thị trường EU đạt 876,2 triệu USD, giảm 3,8% so với 2019. Trong số các nước EU, thị trường xuất khẩu rau quả chính của Việt Nam chủ yếu là: Hà Lan, Pháp, Đức, Italia và Thụy Sĩ. Trong nhóm rau quả tươi xuất khẩu sang khu vực EU thì trái cây luôn đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang EU là dứa, thanh long, cơm dừa, chôm chôm, xoài. Ngoài ra, chanh leo là một trong những mặt hàng được thị trường EU rất quan tâm, là loại quả có nhiều tiềm năng xuất khẩu trong thời gian tới. Tính đến 6 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu chanh leo của Việt Nam đạt 18,4 triệu USD, tăng 41% so với cùng kỳ năm 2019.

Gạo: gạo của Việt Nam đã thâm nhập được vào toàn bộ thị trường EU. Tuy nhiên, XK gạo sang EU chiếm tỷ trọng rất nhỏ (0,7%) trong tổng kim ngạch XKNS của Việt Nam sang EU. Năm 2020, Việt Nam xuất khẩu sang EU 66 nghìn tấn gạo, kim ngạch đạt 43,4 triệu Euro; trong khi EU NK tổng cộng khoảng 2,3 triệu tấn gạo, kim ngạch đạt 1,4 tỷ Euro. So với các nước ASEAN, xuất khẩu gạo của Việt Nam vào EU chỉ bằng 1/6 so với Thái Lan, bằng 1/10 Myamnar và bằng 1/4 Campuchia.

Chè: EU 27 là thị trường NK chè lớn nhất trên thế giới. Tuy nhiên, EU vẫn chỉ là thị trường tiềm năng và quan trọng của ngành chè Việt Nam, bởi nhu cầu NK chè của EU 27 rất lớn, nhưng tỷ trọng NK từ Việt Nam vẫn còn rất thấp.

Mặc dù Việt Nam đã XKNS sang hầu hết các nước EU nhưng thị phần nông sản Việt Nam trên thị trường EU còn rất nhỏ, hàng nông sản XK chủ yếu dưới dạng thô, cạnh tranh về giá ở phân khúc thấp. Các nhóm hàng nông sản XK sang EU tập trung vào 3 nhóm cà phê, trái cây và hạt tiêu. Thực tế này cho thấy, Việt Nam chưa khai thác được tối ưu những lợi thế để XK sang thị trường EU.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 14/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí