Bối Cảnh Trong Nước Và Quốc Tế Ảnh Hưởng Đến Thực Hiện Chính Sách Đầu Tư Côngtại Tỉnh Tái Nguyên

Chương 4

QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CÔNGTẠI TỈNH THÁI NGUYÊN

4.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đầu tư côngtại tỉnh Tái Nguyên

4.1.1. Bối cảnh quốc tế ảnh hướng đến thực hiện chính sách đầu tư công

Kinh tế thế giới trong thời gian quan vẫn duy trì đà tăng trưởng tốt cho đến nửa đầu năm 2018. Từ cuối năm 2019, đại dịch Covid-19 xảy ra trên toàn cầu, gây biến động rất lớn đến kinh tế toàn thế giới và năm 2020, kinh tế toàn cầu phải đối diện với nhiều khó khăn và thách thức do tác động của đại dịch Covid- 19: Thu hẹp tổng cung và tổng cầu, rủi ro tài chính gia tăng, đưa kinh tế thế giới vào vòng suy giảm mạnh mẽ, các quốc gia buộc phải tập trung nguồn lực để ứng phó với dịch bệnh…

Các tổ chức quốc tế (Ngân hàng Thế giới - WB, Quỹ Tiền tệ quốc tế - IMF) đã có những báo cáo cập nhật triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2020 và 2021. Trong đó, theo IMF, kinh tế thế giới năm 2020 giảm 4,4%. Còn theo Ngân hàng Thế giới (WB) kinh tế thế giới suy giảm 4,3% năm 20204.Trong báo cáo tháng 10/2020, IMF cho rằng, kinh tế Mỹ suy giảm 4,3% năm 2020 và sẽ phục hồi khá tốt vào năm 2021

(cụ thể là sẽ tăng 3,1%). Trong khi đó, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo, nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ đạt mức tăng trưởng 3,2% trong 2021 và 3,5% trong 2022, sau khi giảm 3,7% trong năm 2020.[69]

Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) dự đoán thương mại toàn cầu đang chững lại trong thời gian tới. Những bất ổn về chính trị, xu hướng gia tăng bảo hộ thương mại, các cải cách thuế của Mỹ và cuộc cạnh tranh về thuế, dự kiến sẽ ảnh hưởng tới xu hướng đầu tư toàn cầu. Dòng vốn đầu tư FDI toàn cầu trong những năm tới dự báo sẽ chỉ tăng nhẹ ở mức 5%. FDI vào Trung Quốc có thể tăng do các chính sách tự do hóa dòng vốn FDI mới đây. FDI nội khối của các nước ASEAN cũng có thể tăng lên.

- Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, làm thay đổi cấu trúc sản xuất với sự thay đổi trong một loạt các ngành nghề dịch vụ, hành chính, tài

chính, thương mại điện tử… và đặc biệt là đưa tới sự ra đời và sự phát triển cực nhanh của nền ―kinh tế chia sẻ‖ như Grab, Airbnb, thương mại điện tử...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 186 trang tài liệu này.

Khủng hoảng nợ công vẫn tiếp tục phủ bóng đen lên khu vực châu Âu. Tình hình nợ công tại Hy Lạp vẫn tồi tệ khiến cơ quan xếp hạng tín dụng Moody hạ ba bậc xếp hạng tín dụng của nước này, trong khi đó Bồ Ðào Nha cũng chính thức phải xin EU hỗ trợ. Ngoài khu vực châu Âu, Mỹ, Nhật Bản cũng đang đứng trước nguy cơ bị giảm mức xếp hạng tín dụng khi nợ công lên tới mức kỷ lục. Mặc dù nợ công của Nhật Bản trước khi xảy ra động đất, sóng thần cũng đã ở mức 200% GDP.

Nhìn chung, bối cảnh kinh tế thế giới rất khó khăn trong giai đoạn hiện nay, do đại dịch Covid-19 hoành hành. Các nhà kinh tế dự báo chỉ được khôi phục trở lại khi kiểm soát được dịch bệnh Covid-19. Thực tiễn thì đầu tư công được coi là động lực chủ chốt cho sự tăng trưởng và phát triển của quốc gia, dựng nên cơ sở hạ tầng xã hội, hỗ trợ hoạt động của tất cả các thành phần kinh tế. Là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất của Chính phủ, với mục đích tạo ra lợi ích trong tương lai, đầu tư công thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng đầu tư, chi tiêu của xã hội. Nhưng do sự khủng hoảng về dịch bệnh đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế chung trên toàn cầu, việc thực hiện các chính sách đầu tư công để đạt được mục tiêu như đã định là rất khó khăn.

Chính sách đầu tư công từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên - 19

4.1.2. Bối cảnh trong nước ảnh hướng đến thực hiện chính sách đầu tư công

Theo đánh giá của WB Việt Nam: Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Năm 2019, kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục cho thấy có nền tảng mạnh và khả năng chống chịu cao, nhờ nhu cầu trong nước và sản xuất định hướng xuất khẩu vẫn ở mức cao. GDP tăng trưởng đạt 7,02% trong năm 2019, tương tự tỉ lệ tăng trưởng năm 2018, là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực. Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. Tác động y tế ban đầu của dịch bệnh không nghiêm trọng như nhiều quốc gia khác, nhờ có các biện pháp đối phó chủ

động ở cả cấp trung ương và địa phương. Kinh tế vĩ mô và tài khóa ổn định với mức tăng trưởng GDP đạt 2,0% trong năm 2020. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới không dự báo suy thoái kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng dự kiến năm 2020 thấp hơn nhiều so với dự báo trước khủng hoảng là 6-7%.

Thực hiện chính sách đầu tư công từ khi đổi mới đến nay, việc phân cấp trong quản lý đầu tư công được Chính phủ đẩy mạnh và liên tục cải cách. Việc phân cấp quản lý đầu tư công được đề cập đến trong các chủ trương, định hướng, chính sách ở nhiều văn bản khác nhau cụ thể như Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước; Luật Ngân sách 2002 về khuôn khổ pháp lý cho quản lý đầu tư công, Luật Đầu tư năm 2005 và Luật đầu tư công năm 2014, luật đầu tư công sửa đổi 2019 và nhiều văn bản pháp luật khác, đó là những cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện chính sách đầu tư công.

Việc ban hành Luật Đầu tư công 2014, đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ và hoàn chỉnh, nâng cao năng lực, hiệu quả trong quản lý hoạt động và thực thi chính sách và sử dụng vốn đầu tư công. Tuy nhiên, sau hơn 4 năm triển khai mặc dù đạt được kết quả ban đầu khá tích cực, nhưng luật này còn có khá nhiều tồn tại trong hoạt động đầu tư công. Từ đó, dẫn đến yêu cầu phải sửa đổi nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Ngày 13/6/2019 Quốc Hội ban hành Luật đầu tư công số 39/2019/QH14 để khắc phục những tồn tại của Luật đầu tư công năm 2014, Luật Đầu tư công 2019 sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2020. Một trong những mục tiêu đề ra khi sửa đổi Luật Đầu tư công, nhằm đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương, tăng cường hậu kiểm trong quản lý đầu tư công.

Mặc dù đã có môi trường pháp lý thuận lợi, nhưng ở trong nước cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, cùng với Hội nhập quốc tế đã ảnh hưởng đến sự chuyển dịch nguồn lực về tài chính, công nghệ và trình độ sản xuất tiên tiến, hiện đại từ các quốc gia phát triển sang các nước đang phát triển, nhằm tận dụng những lợi thế so sánh về lao động và tài nguyên, gia tăng hiệu quả nguồn vốn. Với mục tiêu kép mà Chính phủ đề ra cũng là điều kiện thuận lợi để việc triển khai thực hiện chính sách đầu tư công trong những năm tiếp theo.

4.1.3. Bối cảnh thực hiện chính sách đầu tư công tại tỉnh Thái Nguyên

Từ năm 2012 đến nay, Thái Nguyên liên tục mở Hội nghị xúc tiến đầu tư, nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư tại tỉnh. Năm 2012, Thái Nguyên vẫn đứng ở vị trí 44/63 tỉnh, thành phố trong cả nước về thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì đến năm 2016, Thái Nguyên đã vươn lên đứng ở vị trí thứ 7/63 tỉnh, thành phố trong cả nước, đưa địa phương lần đầu tiên lọt vào top đầu cả nước có nguồn thu ngân sách đạt con số trên 10.000 tỷ đồng (năm 2017), phấn đấu sẽ tự cân đối thu chi và sẽ thực hiện chuyển một phần kết dư vào ngân sách Trung ương những năm về sau [21]. Điều đó đã khẳng định được vai trò và nỗ lực của tỉnh trong việc đề ra chính sách phát triển kinh tế hợp lý, đặc biệt là chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, bảo vệ và cải thiện sinh kế của người dân, tăng cường sức mạnh toàn diện của tỉnh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Hiện tại, Cơ cấu kinh tế của Thái Nguyên đã có bước chuyển dịch theo hướng tích cực, tỉ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng nhanh, giảm tỉ trọng ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tổng GRDP của tỉnh, đúng định hướng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX nhiệm kỳ (2015 - 2020). Năm 2020, cơ cấu kinh tế là: Công nghiệp - xây dựng chiếm 59%; dịch vụ chiếm 31%; nông - lâm nghiệp - thủy sản chiếm 10%. Tiếp tục là định hướng của tỉnh Đảng bộ nhiệm kỳ 2020 - 2025. Quy mô và năng lực sản xuất các ngành kinh tế đều tăng cao. Năm 2020, quy mô tổng sản phẩm trong tỉnh (tính theo giá hiện hành) đạt 120.830 tỉ đồng (tương đương 5,1 tỉ USD), gấp 1,9 lần so với năm 2015. GRDP bình quân đầu người tăng từ 51 triệu đồng/người năm 2015 lên 90 triệu đồng/người năm 2020 (gấp 1,76 lần so với năm 2015). [48]

Tổng vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2016 - 2020 trên địa bàn Thái Nguyên đạt 238 nghìn tỉ đồng, tăng 18% so với giai đoạn 2011 - 2015 và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra (mục tiêu là 128 nghìn tỉ đồng). Trong đó, khu vực kinh tế nhà nước 26,6 nghìn tỉ đồng (chiếm 11,2%); khu vực ngoài nhà nước 95,5 nghìn tỉ đồng (chiếm 40,1%); khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 115,9 nghìn tỉ đồng (chiếm 48,7%) là những dấu hiệu để tỉnh tự cân đối ngân sách, góp phần quan trọng vào việc thực hiện hiệu quả chính sách đầu tư công trong những năm tiếp theo.

Trong bối cảnh mới, cơ cấu lại đầu tư công cần gắn chặt chẽ với cơ cấu lại vai trò của tỉnh trong nền kinh tế thị trường, theo đó tỉnh chỉ đầu tư trực tiếp ở những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không đảm nhiệm hoặc không có khả năng đảm nhiệm. Nghĩa là, đầu tư công cần tập trung nguồn lực vào những dự án đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội lớn, quan trọng, thiết yếu, có tính lan tỏa trong các vùng, miền như: Giao thông, điện, nước, thủy lợi, hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu, gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế trong nước, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện chính sách đầu tư công của quốc gia cũng như của tỉnh Thái nguyên trong những năm tới.

4.2. Quan điểm định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ của chính sách đầu tư công

4.2.1. Quan điểm, định hướng của Việt Nam

4.2.1.1. Quan điểm, định hướng của Nhà nước về thực hiện chính sách đầu tư công

Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 1/1/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã chỉ ra phương hướng Quản lý và thực hiện chính sách đầu tư công, đó là: ―Hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công, bảo đảm hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó ưu tiên đổi mới cách thức thẩm định, đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư theo mức độ hiệu quả kinh tế dự tính của dự án. Rà soát, hoàn thiện các quy định của pháp luật về đầu tư công, mưa sắm công. Sửa đổi cơ chế phân cấp đầu tư và nâng cao năng lực quản lý đầu tư theo hướng người quyết định đầu tư phải cân đối khả năng bố trí vốn trước khi phê duyệt dự án đầu tư, chịu trách nhiệm quyết định hình thức lựa chọn nhà thầu và chất lượng, hiệu quả của dự án‖. Theo đó, những định hướng quản lý và thực hiện chính sách đầu tư công cần tập chung vào những điểm sau:

Thứ nhất, trong quy hoạch và kế hoạch về triển khai thực hiện chính sách đầu tư công cần: (i) Bảo đảm quy hoạch cần bài bản hơn, kế hoạch về đầu tư công sát với thực tiễn, nhưng cũng cần linh hoạt và phải có tầm nhìn dài hạn, phù hợp với sự phát kinh tế xã hội của tỉnh, có sự tham gia của các thành phần kinh tế; (ii) Khắc

phục tình trạng kế hoạch vốn đầu tư công hàng năm được giao quá chậm, không đáp ứng nhu cầu đầu tư thực tế; (iii) Nhất thiết phải bố trí đủ vốn cho các dự án đang dở dang, mới bố trí các dự án khởi công mới; (vi) Kiên quyết không quyết định đầu tư khi chưa xác định nguồn vốn để hoàn thành dự án, theo hướng tập trung, dứt điểm, tránh để tình trạng dự án dở dang do thiếu vốn như hiện nay.

Thứ hai, trong khâu lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư công cần: (i) Làm tốt công tác khảo sát để xác định đúng sự cần thiết đầu tư; (ii) Thẩm định dự án phải xác định cụ thể phương pháp thẩm định, tiêu chuẩn để có một dự án là khả thi về cả kỹ thuật, tài chính và kinh tế - xã hội, nhất thiết phải phân tích được chi phí

- lợi ích của dự án để đẩm bảo việc phê duyệt chính xác; (iii) Xác định rõ trách nhiệm người thực hiện: Từ trách nhiệm các sở, ngành đến chủ đầu tư và tổ chức tư vấn; (iv) Nâng cao chất lượng tư vấn, thẩm định và phê duyệt các nội dung dự án:

(v) Hoạt động tư vấn có vai trò đặc biệt quan trọng trong quản trị dự án từ giai đoạn thiết kế cho đến thi công.

Thứ ba, trong triển khai đấu thầu thi công cần: (i) Bảo đảm tính đúng đắn, khách quan, công bằng trong đấu thầu; (ii) Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động đầu thầu để ngăn ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực;

(iii) Công khai hóa các hiện tượng tiêu cực trong đầu thầu đã bị xử lý; (iv) Lựa chọn nhà thầu thi công, nhà thầu giám sát có uy tín, có năng lực tài chính, cũng như thiết bị và con người; (v) Quy định rõ trách nhiệm của từng chủ thể để xác định lỗi khi xảy ra sự cố trong triển khai thực hiện.

Thứ tư, trong nghiệm thu, thẩm định chất lượng và bàn giao công trình đầu tư công cần: (i) Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra và phát huy vai trò giám sát xã hội, cộng đồng dân cư trong quản lý đầu tư công đối với dự án đầu tư công; (ii) Gắn chặt trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tư vấn, giám sát thi công;

(iii) Khuyến khích về lợi ích vật chất, đồng thời xử lý trách nhiệm vật chất cả nhà thầu và giám sát thi công tương ứng với chất lượng công trình trong thời gian bảo hành, sử dụng.

Thứ năm, trong thanh, quyết toán dự án đầu tư công, nhất là công trình đầu

tư từ Ngân sách nhà nước: (i) Xác định rõ trách nhiệm của: Chủ đầu tư, cấp trên chủ đầu tư, cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư công trong quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư; (ii) Cơ quan thẩm tra, phê duyệt quyết toán phải chịu trách nhiệm về kết quả thẩm tra, quyết toán của mình; (iii) Tăng cường kiểm tra, đôn đốc chủ đầu tư trong việc thanh toán, quyết toán vốn đầu tư công.

Thứ sáu, đổi mới mạnh mẽ tư duy về đầu tư công dựa trên tư duy mới về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Cụ thể là cần tạo cơ hội bình đẳng hơn nữa cho các nguồn vốn đầu tư khác của xã hội, tạo ra các cơ chế hiệu quả để huy động tối đa các nguồn vốn tư nhân, giảm dần sự phụ thuộc, trông chờ vào ngân sách. Bên cạnh đó, cần đổi mới tư duy về vai trò nhà nước, cụ thể là giảm bớt chức năng ―nhà nước kinh doanh‖. Không nên phân bổ vốn đầu tư nhà nước vào các ngành mà khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm và đảm nhiệm tốt; chuyển trọng tâm ra ngoài lĩnh vực kinh tế, tập trung vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội; phát triển thể chế và phát triển năng lực, để tạo được ngoại ứng tích cực lan tỏa đến khu vực tư nhân, hỗ trợ khu vực này phát triển và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Thứ bảy: Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các ngành, lĩnh vực then chốt,

các dự án lớn, quan trọng của quốc gia, dự án quy mô lớn, kết nối liên vùng, các dự án quan trọng, cấp thiết của địa phương để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, bảo đảm tác động lan tỏa, tạo không gian phát triển mới và những động lực, năng lực mới, thúc đẩy sự phát triển của ngành, lĩnh vực, địa phương; đồng thời quan tâm, chú trọng các dự án phòng chống thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống của người dân trong tỉnh.

4.2.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ về triển khai thực hiện chính sách đầu tư công

Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, tác động của đại dịch Covid-19 còn kéo dài; thế và lực của đất nước đã lớn mạnh những thuận lợi và khó khăn đan xen, cơ hội đi kèm với thách thức, nhất là các thách thức về hạ tầng đồng bộ, năng lực cạnh tranh, năng suất lao động… Trong bối cảnh đó, đầu tư công ngày càng đóng vai trò quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, với nguồn ngân sách có hạn, đòi hỏi kế hoạch đầu tư công trung

hạn giai đoạn 2021 - 2025 cần được tiếp tục đổi mới, xây dựng một cách hợp lý, đảm bảo tập trung vào các mục tiêu, nhiệm vụ đã được Đại hội lần thứ XIII đã đề ra. Cụ thể là:

- Mục tiêu cụ thể của giai đoạn là tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân khoảng 32 - 34% GDP thì tỷ lệ huy động nguồn ngân sách giai đoạn 2021 - 2025 bình quân khoảng 16% GDP;

- Đến năm 2025, trần nợ công không quá 60% GDP, ngưỡng an toàn nợ công 55% GDP, trần nợ Chính phủ không quá 50% GDP, ngưỡng an toàn nợ Chính phủ 45% GDP. Tỷ trọng chi đầu tư NSNN chiếm khoảng 28% tổng chi NSNN; phấn đấu chi đầu tư NSNN chiếm 29% tổng chi NSNN, chi đầu tư NSTW đảm bảo vai trò chủ đạo.

- Phấn đấu tỷ lệ giải ngân trung bình giai đoạn 2021 - 2025 cao hơn giai đoạn 2016 - 2020, đạt khoảng 90%; phấn đấu số dự án dự kiến hoàn thành trong giai đoạn chiếm 80-85% tổng số dự án được bố trí vốn NSTW giai đoạn 2021 - 2025.

- Hoàn thành các tuyến kết nối vùng Nam Trung Bộ với Tây Nguyên, các công trình đường bộ cao tốc và đường thủy nội địa cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hoàn thành trên 1.700 km đường ven biển từ Quảng Ninh đến Cà Mau. Hoàn thành đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông; hoàn thành các công trình thủy lợi, hồ chứa nước trọng yếu, ưu tiên cho các vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ đập phục vụ sản xuất và đời sống Nhân dân.

4.2.2. Quan điểm, định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh Thái Nguyên trong thực hiện chính sách đầu tư công

4.2.2.1. Quan điểm, định hướng của tỉnh Thái Nguyên về thực hiện chính sách đầu tư công

Căn cứ mục tiêu, định hướng trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Căn cứ triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của Tỉnh Thái Nguyên. Từ đó, có định hướng để triển khai thực hiện chính sách đầu tư công, với quan điểm, định hướng đặt ra cho giai đoạn 2021 - 2025.[35]

a) Về quan điểm thực hiện:

Xem tất cả 186 trang.

Ngày đăng: 12/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí