Chính sách của các nước lớn ( Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc) đối với bán đảo Triều Tiên từ khi kết thúc chiến tranh lạnh đến nay - 7

Bản, Hàn Quốc bảo hộ công nghiệp nội địa bằng cách đánh thuế cao vào hàng nhập khẩu và các hàng rào mậu dịch khác. Hàn Quốc cũng đã có những hành xử thương mại không đẹp, thể hiện ở việc bán phá giá vào thị trường Mỹ cũng như xâm phạm luật sở hữu trí tuệ dù ít hơn so với Nhật và Đài Loan. Kết quả là, Hàn Quốc xuất sang Mỹ xe hơi, thiết bị điện trong khi hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ chỉ giới hạn ở một số hàng nông sản và nguyên liệu thô”. Cũng không phải vô cớ mà người Mỹ đi đến kết luận trên. Vào năm 1990, trong tổng số các mặt hàng công nghiệp nhập vào Mỹ, sản phẩm công nghiệp chiếm 75,5 %, trong đó sản phẩm công nghiệp nặng và hóa chất chiếm đến 71,8%. Số liệu tương ứng vào các năm 1991, 1992, 1993 là 80,8% - 76,9%; 80,6% - 76,1%; 81,7% - 76,8%. Tuy nhiên,

lý do chủ yếu là trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, Hàn Quốc đã rất quan tâm đến mặt hàng ô tô và điện tử. Cũng những lý do trên, kể từ đầu thập niên 1990, cán cân thương mại của Hàn Quốc và Mỹ đã bắt đầu có sự chuyển dịch thực thụ. Và Mỹ có đủ lý do để khẳng định, dù vẫn còn rất quan trọng trong các kế hoạch chiến lược của mình ở châu Á, Mỹ vẫn phải xem Hàn Quốc là một đối thủ trong cuộc chiến thương mại thời kỳ mới. Ở đó không có sự che chở, nhân nhượng và bảo bọc mà chỉ có sự công bằng của luật chơi. Bởi các lợi ích chính trị và an ninh đều xuất phát từ lợi ích kinh tế. Đó là quy luật chung mà Mỹ và Hàn Quốc cũng không phải là ngoại lệ[58].

Về phía Mỹ, thương mại và kể cả đầu tư giữa hai bờ Thái Bình Dương ngày càng quan trọng đối với sự ổn định của nền kinh tế khu vực nói riêngvà toàn cầu nói chung, nên một châu Á ổn định chính là lợi ích chiến lược mang tính sống còn của Mỹ. Thực tế này, một lần nữa lại khẳng định Chiến tranh lạnh đã kết thúc, va chạm thương mại giữa hai nước diễn ra ngày càng trầm trọng cũng không thể làm cho quan hệ Hàn - Mỹ trở nên xấu đi. Chính quyền Mỹ đánh giá cao vị trí châu Á - Thái Bình Dương đối với việc triển khai chiến lược kinh tế phục hưng nước Mỹ. Mục tiêu kinh tế của Mỹ là tiếp tục thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư thông qua APEC, thúc đẩy xuất khẩu sang các nước châu Á thông qua các biện pháp nhằm mở cửa thị trường và điều kiện thuận lợi cho giới kinh doanh Mỹ. Mỹ cho rằng nhiều nước trong khu vực không công

bằng trong đầu tư và thương mại, vì vậy, mục tiêu của Mỹ là đòi khu vực mở cửa thị trường tiến tới tự do hoá đầu tư và thương mại. Để đạt được mục tiêu này, trong quan hệ song phương, Mỹ đòi các nước mở cửa thị trường cho hàng hoá và cơ hội kinh doanh cho các công ty của Mỹ. Mỹ sẵn sàng đe doạ hoặc áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với những nước mà Mỹ cho là không công bằng trong luật chơi. Tất nhiên, trong trường hợp này, Hàn Quốc cũng không thể là một ngoại lệ, dù cho điều này đã từng xảy ra với họ trước đây [9, tr105]. Tuy Mỹ vẫn là đối tác kinh tế quan trọng của Hàn Quốc, nhưng trong bối cảnh và xu thế mới, mối quan hệ Hàn - Mỹ cũng không còn giống trước. Giờ đây, quan hệ buôn bán giữa hai nước trở thành quan hệ cạnh tranh, những va chạm thương mại ngày càng tăng. Bởi khi mối quan hệ đã được đặt trên cơ sở các nhu cầu thực sự lợi ích cho cả hai phía thì một mặt nó phản ánh cách tiếp cận đúng đắn thiết thực của cả hai bên, mặt khác những khó khăn thực sự cũng nảy sinh. Bản chất của quan hệ Hàn - Mỹ đang trên đà phát triển nhưng đã có sự thay đổi.

Sau chiến tranh lạnh, nhất là từ thời Bill Clinton, mục tiêu kinh tế của Mỹ là “tiếp tục thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư thông qua APEC, thúc đẩy xuất khẩu sang các nước châu Á thông qua các biện pháp nhằm mở cửa thị trường, và tạo điều kiện thuận lợi cho giới kinh doanh Mỹ” [7, tr106]. Trong đó, Mỹ đặc biệt chú trọng đến việc sử dụng các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IMF) tác động đến đường lối kinh tế của các nước khu vực. Điển hình, năm 1997, tận dụng cơ hội khủng hoảng tài chính ở châu Á, Mỹ đã chi phối IMF kéo Hàn Quốc thoát ra khỏi vấn nạn. Làm như vậy, Mỹ đạt được mục đích buộc Hàn Quốc phải mở cửa thị trường tài chính, đầu tư, thương mại, đẩy nhanh cải cách kinh tế, đặc biệt là hệ thống tài chính và ngân hàng, vừa giữ được cam kết giúp Hàn Quốc mở cửa hơn nữa các thị trường và hòa nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Chỉ sau một năm, Hàn Quốc đã ra khỏi cuộc khủng hoảng và lấy lại được tốc độ tăng trưởng ngoạn mục. Không thể phủ nhận những thành tựu đáng khâm phục trên chủ yếu là do những nỗ lực tự thân của người Hàn Quốc, nhưng cũng phải thừa nhận rằng nếu thiếu sự hậu thuẫn đắc lực của Mỹ thì Hàn Quốc khó có thể ra khỏi khủng hoảng và phục hồi một cách nhanh chóng. Rò ràng, Mỹ

đã giữ vị trí quan trọng trong việc kéo Hàn Quốc ra khỏi khủng hoảng thông qua IMF - tổ chức chịu sự chi phối mạnh mẽ của Mỹ. Quan hệ kinh tế Hàn - Mỹ cuối thế kỷ 20 sang đầu thế kỷ 21, bắt đầu gặp nhiều sóng gió do tình hình bất ổn trên bán đảo Triều Tiên cộng với những xung đột thương mại ngày càng tăng giữa hai nước. Trong quá khứ, Hàn Quốc thường ở vào thế chẳng thể khác, giờ đây họ là một đối tác quan hệ tuy không ngang ngửa với Mỹ nhưng tiếng nói có trọng lượng hơn nhiều. Và họ cũng sẵn sàng sử dụng bất kỳ biện pháp nào có thể để buộc Mỹ phải điều chỉnh quan hệ theo hướng bình đẳng và có lợi cho Hàn Quốc. Đơn cử, để thúc đẩy Quốc hội Mỹ thông qua FTA, Hàn Quốc đã tạm ngừng nhập thịt bò Mỹ do lo ngại về bệnh bò điên. Thật ra lo ngại về bệnh bò điên chỉ là một lý do, lý do chủ yếu là Hàn quốc muốn thông qua vụ việc này để tỏ rò thái độ với Mỹ trong việc thông qua FTA với hy vọng mở cửa hơn nữa thị trường nội địa nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy quan hệ thương mại giữa hai nước có thay đổi nhưng không phải hoàn toàn mang màu sắc ảm đạm. Cùng với Hiệp định Thương mại Tự do Mỹ, Hàn (KORUS FTA - 2007), quan hệ giữa hai nước bước sang một giai đoạn mới khi Lee Myung Bak đắc cử vào tháng 12.2007. Hiệp định tự do thương mại (gọi tắt là FTA) giữa Mỹ và Hàn Quốc trên thực tế được 2 chính phủ ký kết từ năm 2007, song không thể có hiệu lực vì Quốc hội hai bên vẫn chưa phê chuẩn văn bản này. Giờ đây, vấn đề bế tắc xem ra đã tìm được lối thoát, khi vào ngày 5.10.2011, Ủy ban Thuế và an sinh Xã hội của Hạ viện Mỹ đã chấp thuận thông qua FTA với Hàn Quốc và Hiệp định này sắp được đưa ra bỏ phiếu tại lưỡng viện Mỹ. Cái lợi đối với kinh tế Mỹ thấy rò khi Chính quyền Barack Obama nhận định FTA Mỹ-Hàn sẽ hỗ trợ 70.000 việc làm tại Mỹ và giúp tăng gấp đôi kim ngạch xuất khẩu của Mỹ sang Hàn Quốc trong 5 năm tới khoảng 10 tỉ USD và giúp Mỹ tiếp tục bám trụ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế - thương mại và đầu tư[5, tr30]. Mặt khác, tạo ra khu vực mậu dịch tự do với Hàn Quốc giúp Mỹ cải thiện vị thế cạnh tranh với EU ở Hàn Quốc, tạo đối trọng cho quan hệ kinh tế, thương mại, nhưng đồng thời cả chính trị an ninh với Trung Quốc và Nhật Bản cũng như giúp Mỹ có bàn đạp thuận lợi vươn tới những thị trường khác nữa ở khu vực.

Thoả thuận chỉ song phương thôi, nhưng lợi ích từ đó lại đa chiều và nhiều tầng nấc hơn nhiều đối với cả hai. Song về phía Hàn Quốc, các nghị sĩ thuộc đảng đối lập thì vẫn đang do dự vì cho rằng, cán cân lợi ích đang nghiêng về phía Mỹ. Chính vì vậy, chuyến thăm Mỹ của Tổng thống Lee Myung Bak vào ngày 12.10.2011 còn mang mục đích củng cố niềm tin với đối tác Mỹ. Điều đó có thể xem như một sự hứa ngầm của nhà lãnh đạo Hàn Quốc rằng Hàn Quốc sẽ nối gót khi Quốc hội Mỹ chấp thuận bước trước trong vấn đề tự do thương mại.

Tóm lại, tại thời điểm hiện nay quan hệ của Mỹ và Hàn Quốc khăng khít hơn bao giờ hết. Đặc biệt, trong bối cảnh Quốc hội Mỹ ngày 13.10.2011 vừa thông qua Hiệp định Tự do Thương mại giữa Mỹ và Hàn Quốc và sau sự ra đi của chủ tịch Kim Jong Il, con trai ông là Kim Jong Un lên lãnh đạo CHDCND Triều Tiên. Mỹ đang thắt chặt quan hệ đồng minh với Hàn Quốc và Tổng thống Obama cho rằng điều đó cho thấy Mỹ là một nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

2. 2 Chính sách của Nhật Bản

Về vị trí địa lý, Nhật Bản chỉ cách bán đảo Triều Tiên một eo biển khoảng 190km, bán đảo Korea là con đường ngắn nhất nối Nhật Bản với lục địa châu Á. Về mặt lịch sử, từ thế kỷ thứ 16 Nhật Bản bắt đầu thực hiện tham vọng bành trướng, xâm lược bán đảo Triều Tiên nhiều lần. Đến năm 1910, Nhật chính thức đặt ách cai trị lên bán đảo Triều Tiên. Bán đảo Triều Tiên trở thành thuộc địa của Nhật Bản cho đến khi Nhật thất bại trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau khi bán đảo Triều Tiên bị chia cắt thành miền rồi trở thành hai quốc gia độc lập, Nhật Bản gặp phải trở ngại trong quan hệ với cả hai nước vì lý do quá khứ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 157 trang tài liệu này.

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Nhật thực hiện chính sách rời châu Á vào châu Mỹ coi trọng quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây. Do vậy thời kỳ này, mục tiêu chủ yếu trong chính sách của Nhật đối với hai nước trên bán đảo Triều Tiên là thiên về lợi ích kinh tế, thương mại. Và Nhật chủ yếu quan hệ với Hàn Quốc, còn đối với CHDCND Triều Tiên mối quan hệ gần như đóng băng.

Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, nhận thức của các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã thay đổi, họ không chỉ nhìn thấy lợi ích về kinh tế mà còn thấy nhiều lợi ích khác

Chính sách của các nước lớn ( Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc) đối với bán đảo Triều Tiên từ khi kết thúc chiến tranh lạnh đến nay - 7

trên bán đảo Triều Tiên. Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Hàn Quốc, khiến cho Nhật Bản thấy rằng việc thúc đẩy quan hệ với Hàn Quốc giúp cho Nhật Bản nâng cao vị thế siêu cường kinh tế của Nhật. Hàn Quốc cũng trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn của Nhật. Về mặt chính trị-an ninh, do bán đảo Triều Tiên chỉ cách Nhật Bản một eo biển nên đây là con đường ngắn nhất cho các thế lực bên ngoài tấn công vào Nhật Bản.Vào thời kỳ chiến tranh lạnh, do sự có mặt của Mỹ trên bán đảo nên mối đe dọa an ninh từ bán đảo Triều Tiên không lớn lắm. Nhưng từ khi xuất hiện vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên cùng những căng thẳng trong quan hệ quốc tế của khu vực Đông Bắc Á xung quanh vấn đề này, Nhật Bản nhận thấy đây là mối đe dọa an ninh sâu sắc đối với mình. Nhật cho rằng có thể tranh thủ Hàn Quốc để đối phó với nguy cơ này và kỳ vọng thiết lập liên minh Nhật-Mỹ-Hàn để đảm bảo an ninh chắc chắn cho mình khi khu vực chưa có một cơ chế an ninh thật hữu hiệu.

Về vấn đề thống nhất của bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản lo sợ bán đảo Triều Tiên thống nhất thì Nhật sẽ mất đi một đồng minh thân cận là Hàn Quốc và đồng thời Nhật cũng mất đi sự che chở của Mỹ. Hơn nữa, khi bán đảo Triều Tiên thống nhất sẽ trở thành một nước hùng mạnh và tự phòng vệ bằng vũ khí hạt nhân nên đó là điều mà Nhật Bản không muốn xảy ra.

2. 2.1 Đối với CHDCND Triều Tiên

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Nhật Bản thi hành chính sách không quá cứng rắn với CHDCND Triều Tiên nhưng về mặt chính trị, đối đầu Nhật-Triều luôn trong tình trạng căng thẳng. Đến đầu thập niên 70 mối quan hệ Nhật – Triều bớt căng thẳng tuy nhiên Nhật chủ yếu duy trì quan hệ với CHDCND Triều Tiên về mặt kinh tế- thương mại. Vào năm 1980, khi tình hình chiến tranh lạnh căng thẳng trở lại, quan hệ Nhật- Triều trở nên xấu đi, Nhật đã cấm các quan chức nhà nước tới CHDCND Triều Tiên, cấm tiếp xúc ngoại giao với CHDCND Triều Tiên ở nước thứ ba.

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi đã tác động nhiều đến chính sách của Nhật đối với CHDCND Triều Tiên. Riêng đối với Nhật, vào thời kỳ này, đất nước rơi vào tình trạng bất ổn về mọi

mặt. Về chính trị, sau mấy thập niên liên tục cầm quyền (từ năm 1955 đến năm 1993) Đảng Dân chủ tự do Nhật mất quyền lãnh đạo. Kể từ đó các chính phủ Nhật Bản được thiết lập trên cơ sở liên hiệp nhiều đảng. Các thủ tướng Nhật vì vậy cũng liên tục thay đổi, nên không có một chính sách đối ngoại nhất quán. Trên trường quốc tế, Nhật Bản được cho là người khổng lồ một chân có nghĩa là Nhật Bản chỉ có sức mạnh về kinh tế và ít có vai trò trong đời sống chính trị quốc tế. Sự tan rã của Liên Xô và chiến tranh lạnh kết thúc giúp cho Nhật Bản có cơ hội khẳng định vai trò chính trị cho tương xứng với sức mạnh kinh tế của mình. Bán đảo Triều Tiên trở thành một nơi gần nhất giúp Nhật thực hiện mong muốn đó.

Từ năm 1990, Nhật Bản luôn mong muốn được tiếp xúc với CHDCND Triều Tiên tuy nhiên Nhật Bản đã gặp phải rất nhiều khó khăn, trắc trở. Bằng nhiều nỗ lực cải thiện quan hệ, vào ngày 9.1990 cuộc tiếp xúc giữa hai đoàn đảng LDP và Đảng xã hội của Nhật với các quan chức của CHDCND Triều Tiên và chủ tịch Kim Il Sung ở Pyoengyang. Kết quả của cuộc gặp mặt hai bên đã ra một tuyên bố chung 8 điểm trong đó Nhật Bản đồng ý sẽ xin lỗi và bồi thường những thiệt hại mà Nhật đã gây ra cho CHDCND Triều Tiên trong những năm thống trị. Nhưng tuyên bố này đã không được Nhật Bản công nhận. Sau đó Nhật Bản và CHDCND Triều Tiên đã tiến hành nhiều vòng đàm phán về vấn đề bình thường hóa quan hệ nhưng luôn gặp khó khăn, bế tắc do hai bên có quá nhiều quan điểm bất đồng. Bên cạnh đó, trong khi diễn ra các cuộc đàm phán, một loạt các sự kiên bên ngoài diễn ra đã ảnh hưởng tới kết quả của cuộc đàm phán như việc CHDCND Triều Tiên phóng thử tên lửa đạn đạo qua vùng trời Nhật Bản, CHDCND Triều Tiên rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân(NPT)… Đến năm 1997, CHDCND Triều Tiên bày tỏ mong muốn chuyển quan hệ hai nước từ trạng thái nước gần quan hệ xa sang trạng thái nước gần quan hệ gần và muốn có quan hệ láng giềng với Nhật Bản. Ngày 17.9.2002 Tuyên bố chung Nhật-Triều đã được ký kết tại Pyoengyang trong đó hai bên thỏa thuận sẽ giải quyết ổn thỏa việc công nhân Nhật bị bắt cóc và vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên để hai nước đi đến bình thường hóa quan hệ. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa đạt được kết quả.

Về chính trị- ngoại giao, Nhật Bản luôn có thái độ tích cực và mong muốn được bình thường hóa với CHDCND Triều Tiên nhưng về mặt an ninh- quân sự Nhật Bản tỏ ra đề phòng và kiềm chế. Thời kỳ chiến tranh lạnh, Nhật Bản lo ngại một CHDCND Triều Tiên thuộc phe XHCN ngay bên cạnh mình còn bây giờ một CHDCND Triều Tiên với vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo luôn có nguy cơ tấn công vào Nhật Bản càng làm cho nỗi lo của Nhật tăng lên bội lần. Vì vậy, trong các cuộc đàm phán, Nhật luôn đặt điều kiện buộc CHDCND Triều Tiên phải chấm dứt các chương trình hạt nhân và tên lửa đạn đạo thì Nhật mới bãi bỏ cấm vận và cải thiện quan hệ. Quan điểm này của Nhật được thể hiện rò ràng trong các cuộc đàm phán 6 bên. Tại vòng đàm phán 6 bên lần thứ nhất (8.2003) ở Bắc Kinh, đoàn đại biểu Nhật gồm 32 người do Yabunaka Mitoji Vụ trưởng Vụ châu Á Bộ ngoại giao làm trưởng đoàn khẳng định lập trường của mình là yêu cầu CHDCND Triều Tiên phải hủy bỏ tất cả các chương trình hạt nhân thì Nhật sẽ xem xét hỗ trợ năng lượng cho nước này và vấn đề hạt nhân cũng như vấn đề bắt cóc phải được giải quyết trước khi bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Cũng tại vòng đàm phán 6 bên lần thứ hai (2.2004) tại Bắc Kinh, Nhật Bản tiếp tục yêu cầu CHDCND Triều Tiên thực hiên các vấn đề nêu trên, Nhật Bản vẫn có gắng đưa vấn đề riêng của mình vào vòng đàm phán 6 bên. Tại vòng đàm phán 6 bên lần ba (6.2004), Nhật có sửa đổi đôi chút về lập trường khi đưa ra ba điều kiện để Nhật tham gia hỗ trợ cung cấp năng lượng cho CHDCND Triều Tiên, cụ thể là CHDCND Triều Tiên phải công bố tất cả các chương trình hạt nhân, phạm vi của việc chấm dứt các chương trình vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên bao gồm cả việc chấm dứt chương trình làm giàu Uranium và cuối cùng là việc chấm dứt phải được thanh kiểm tra lại một cách chính xác.

Ngày 8.3.2007, Nhật Bản và CHDCND Triều Tiên đã kết thúc các cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước tại Đại sứ quán CHDCND Triều Tiên ở Hà Nội mà không đạt được tiến bộ nào. Phái đoàn đàm phán của Nhật Bản đã ra tuyên bố cho biết hai bên đã thỏa thuận tiếp tục cuộc đàm phán nhưng ngày giờ nối lại vẫn chưa được quyết định. Trong khi đó, phái đoàn đàm phán CHDCND Triều Tiên nhấn mạnh việc nối lại đàm phán phụ thuộc vào thái

độ của phía Nhật Bản. CHDCND Triều Tiên sẽ cân nhắc nối lại cuộc đàm phán này nếu Nhật Bản thay đổi thái độ. Tại cuộc họp báo sau khi kết thúc đàm phán, Đại sứ CHDCND Triều Tiên phụ trách đàm phán bình thường hoá quan hệ Triều

- Nhật Song Il Ho cho biết cuộc đàm phán đã diễn ra căng thẳng vì hai bên vẫn còn khoảng cách lớn về quan điểm trong vấn đề con tin Nhật Bản bị CHDCND Triều Tiên bắt cóc và vấn đề liên quan tới thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng bán đảo Triều Tiên. Quan điểm của CHDCND Triều Tiên về vấn đề con tin Nhật Bản bị CHDCND Triều Tiên bắt cóc là CHDCND Triều Tiên đã làm tất cả những gì có thể làm được, và như vậy, vấn đề này đã được giải quyết. Nếu còn tồn tại thì đó chỉ là việc Nhật Bản phải trao trả lại tro hài cốt của con tin Megumi Yokota mà phía CHDCND Triều Tiên đã trao cho Nhật Bản nhưng bị phía Nhật Bản cho là không phải tro của con tin này. Tại cuộc đàm phán, CHDCND Triều Tiên cũng đã yêu cầu Nhật Bản bãi bỏ lệnh cấm vận đối với CHDCND Triều Tiên, đối xử công bằng với người Triều Tiên tại Nhật Bản và viện trợ kinh tế để bồi thường cho những thiệt hại mà quân đội Nhật Bản đã gây ra cho nhân dân Triều Tiên trong chiến tranh thế giới thứ hai.

Ngày 28.5.2010, Thượng viện Nhật Bản đã bỏ phiếu thông qua Đạo luật cho phép kiểm tra tàu chở hàng ra vào CHDCND Triều Tiên. Đạo luật này được xây dựng dựa trên Nghị quyết số 1874 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc năm 2009, khuyến khích các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc kiểm tra tàu chở hàng ra vào CHDCND Triều Tiên, sau vụ thử hạt nhân dưới lòng đất của nước này tháng 5.2009. Theo đạo luật này, lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản có thể kiểm tra các tàu chở hàng ra vào CHDCND Triều Tiên ngay tại vùng biển quốc tế, nếu được chủ tàu và nước mà tàu treo cờ đồng ý.

Ngày 17.12.2010 Nhật đã tiết lộ kế hoạch sửa đổi sâu rộng đối với chính sách quốc phòng, thực thi thái độ linh hoạt hơn và chuyển đổi nguồn lực tập trung của nước này do lo ngại trước việc củng cố quân sự của Trung Quốc và chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Bản Chỉ đạo chương trình Quốc phòng, được nội các của Thủ tướng Nhật Naoto Kan phê chuẩn, theo đó sẽ chi 23,49 nghìn tỷ yên (280 tỷ USD) cho quốc phòng trong vòng 5 năm, bắt đầu

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/06/2022