Đảng Bộ Thái Bình Lãnh Đạo Tổ Chức Xây Dựng Phong Trào Chiến Tranh Du Kích, Góp Phần Cùng Quân Dân Liên Khu Ngăn Chặn Âm Mưu Mở Rộng Phạm Vi Chiếm

bức bóc lột hà khắc, đòi giảm các khoản đóng góp trong làng xã, đòi cải cách hương thôn. Đồng thời, nông dân cũng tích cực hưởng ứng các cuộc vận động do Trung ương và Xứ uỷ phát động như: đấu tranh đòi trả tự do cho các chính trị phạm, phản đối dự án thuế thân của Saten, cử đại biểu đi dự mít tinh ở Hà Nội, quyên góp ủng hộ báo của Mặt trận dân chủ, ủng hộ nhân dân Trung Quốc chống Nhật…

Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 11-1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 quyết định chuyển hướng hoạt động. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ. Tại Thái Bình, việc chuyển hướng các mặt trận công tác cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới đã được Ban Tỉnh uỷ thực hiện.

Tháng 9-1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân ta sống trong tình cảnh “một cổ hai tròng” dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương đã họp và quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp hết thảy mọi tầng lớp nhân dân tham gia đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập dân tộc.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, tỉnh đã triển khai chỉ thị của Trung ương Đảng, triệu tập cuộc họp đại biểu Việt Minh các phủ, huyện tại Động Trung, huyện Kiến Xương, bàn biện pháp mở rộng cơ sở cứu quốc, thành lập Ban chấn chỉnh phong trào. Giữa lúc đó, Thái Bình xảy ra nạn đói, trong vòng 5 tháng đầu năm 1945, toàn tỉnh đã có 28 vạn người chết (chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh lúc đó). Ban chấn chỉnh phong trào đã lãnh đạo vận động cuộc cứu đói trong dân, đấu tranh với chính quyền bù nhìn thân Nhật để cứu tế.

Tháng 4-1945, Ban chấn chỉnh phong trào họp tại Động Trung, huyện Kiến Xương, đổi tên thành Ban Tỉnh uỷ lâm thời và bầu Ban Thường vụ do đồng chí Nguyễn Đức Tâm (Tâm Hậu) làm Bí thư. Hội nghị tiến hành một số

nhiệm vụ cấp thiết để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền như: chuẩn bị về lực lượng, tổ chức, thành lập an toàn khu Phương Quả (huyện Quỳnh Côi), tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống phát xít Nhật và bè lũ tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Ban Tỉnh uỷ lâm thời, phong trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra sôi nổi trong toàn tỉnh.

Đến cuối tháng 7-1945, phong trào cách mạng trong toàn tỉnh đã lên đến cao trào, cơ sở cứu quốc phát triển nhanh chóng, không khí chuẩn bị khởi nghĩa sục sôi khắp nơi. Ngày 18-8-1945, sau khi nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã họp phiên bất thường tại Thái Ninh ra lệnh tổng khởi nghĩa. Chiều ngày 18-8-1945, cuộc khởi nghĩa nổ ra đầu tiên ở Thái Ninh, tiếp sau đó là ở thị xã Thái Bình, các huyện Duyên Hà, Thuỵ Anh, Hưng Nhân, Kiến Xương, Vũ Tiên, Tiền Hải, Thư Trì. Đến hết ngày 24-8, các địa phương trong toàn tỉnh đều đã giành được chính quyền. Tối ngày 24-8, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập. Ngày 25-8-1945, khắp nơi trong tỉnh tổ chức mít tinh mừng thắng lợi của tổng khởi nghĩa và thành lập chính quyền cách mạng.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan ách thống trị của thực dân, đế quốc trong gần 100 năm và xóa bỏ chế độ phong kiến gần 1000 năm, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do, nhân dân đứng lên làm chủ vận mệnh của mình.

Sau cách mạng tháng Tám, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thái Bình bước vào cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân. Bên cạnh những thuận lợi căn bản là những khó khăn vô cùng to lớn. Trước tình hình đó, Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt tài tình đưa nước ta thoát khỏi thế “ ngàn cân treo sợi tóc”, rồi sau đó bước vào cuộc chiến đấu lâu dài với thực dân Pháp mà ta biết chắc là không thể tránh khỏi.

1.2. Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo tổ chức xây dựng phong trào chiến tranh du kích, góp phần cùng quân dân Liên khu ngăn chặn âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp (1946 - 2/1950).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

1.2.1 Khái niệm về chiến tranh du kích, khu du kích, căn cứ du kích, làng kháng chiến.

“Chiến tranh du kích là chiến tranh được tiến hành theo phương thức đánh địch tại chỗ với lực lượng nhỏ, nòng cốt là lực lượng vũ trang địa phương nhằm chống lại đối phương có ưu thế hơn về sức mạnh quân sự. Thường được sử dụng ở các nước thuộc địa hoặc bị xâm lược khi so sánh lực lượng ở những nước đó chưa cho phép tiến hành chiến tranh chính quy. Chiến tranh du kích rất phong phú và đa dạng về hình thức tiến hành và luôn phối hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy. Ở Việt Nam chiến tranh du kích trở thành một trong những phương thức tiến hành chiến tranh trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, trong đó tư tưởng không ngừng tiến công địch và kiên trì bám trụ, làm chủ làng (bản), xã, phố phường, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng giành và giữ quyền làm chủ ở cơ sở là đặc trưng tiêu biểu của chiến tranh du kích ở Việt Nam”[38,tr.224]

Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo chiến tranh du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 - 1954 - 4

“Căn cứ du kích là vùng lãnh thổ và dân cư được giải phóng nằm trong vùng địch tạm chiếm được xây dựng thành căn cứ của chiến tranh du kích. Ở Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Căn cứ du kích có đặc trưng là: chính quyền và lực lượng vũ trang của đối phương đã bị tiêu diệt, các tổ chức chính trị phản động đã tan rã; chính quyền cách mạng được thành lập công khai quản lý mọi sinh hoạt xã hội, các đoàn thể cách mạng công khai hoạt động; lực lượng vũ trang cách mạng được tổ chức và phát triển mạnh mẽ để bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến công địch; còn trong vòng vây của địch, tình hình chưa được ổn định, thường xuyên bị địch uy hiếp. Nếu căn cứ du kích được củng cố vững chắc sẽ phát triển thành vùng giải phóng”[38,tr.226].

“Khu du kích là khu vực dân cư nằm trong vùng địch tạm chiếm, ở đó có chiến tranh du kích của lực lượng kháng chiến và thường xuyên diễn ra tranh chấp giằng co với địch để giành quyền làm chủ hoàn toàn.

Đặc điểm của khu du kích là: chính quyền cách mạng chưa hình thành hoặc đã hình thành những hoạt động bí mật hoặc nửa công khai, các lực lượng vũ trang cách mạng chưa đủ sức diệt hết các cứ điểm của đối phương; chính quyền và một số cứ điểm của đối phương tồn tại nhưng không đủ sức kiểm soát, khống chế nhân dân như cũ, các đơn vị của đối phương không dám tự do để lại, các tổ chức phản cách mạng và gián điệp hoạt động nửa công khai, không đủ sức khống chế nhân dân; nhân dân được cách mạng bảo vệ nhưng chưa thoát khỏi sự kìm kẹp của địch vừa lo đóng góp cho cách mạng vừa phải cống nạp một phần cho địch. So với căn cứ du kích, khu du kích có thể rộng lớn hơn về mặt giới hạn địa lý nhưng đời sống chính trị xã hội của dân chưa an toàn, ổn định. Khu du kích là bước quá độ từ cơ sở chính trị của kháng chiến tiến lên căn cứ du kích”[ 38,tr.568].

“Làng xã kháng chiến, làng xã được xây dựng và chuẩn bị mọi mặt để nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương vừa sinh sống vừa bám trụ đánh địch và đấu tranh chống địch. Làng xã kháng chiến được xây dựng vững mạnh toàn diện: tổ chức đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể nhân dân được tổ chức và giáo dục chu đáo; thế trận, công sự, vật cản và các cơ sở vật chất khác được chuẩn bị trước và trong quá trình chống địch đã phát huy tốt vai trò cơ sở của chiến tranh nhân dân”[38,tr.583].

1.2.2 Đảng bộ lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức phát động phong trào du kích chiến tranh

Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, sau Hiệp định sơ bộ 6-3- 1946 thực dân Pháp, tăng quân trái phép và bố trí lực lượng chiếm đóng các vị trí then chốt trên đất nước ta như Hà Nội, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng.

Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng (26-11-1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng nhận định: “Nếu quân Pháp tái diễn ở Hà Nội việc chúng đã làm ở Hải Phòng thì cả nước sẽ nhất tề đứng lên chiến đấu chống quân xâm lược”. “Quân Pháp chỉ chờ cơ hội là lập tức đánh ta. Ta cần tìm mọi cách để tránh nổ ra chiến tranh. Trong khi hết sức tích cực, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, tuyệt đối không sa vào âm mưu khiêu khích để địch lợi dụng đánh ta sớm. Ở thành thị biến mỗi thành phố thành một chiến hào, ở nông thôn mỗi làng thành một pháo đài. Kháng chiến của ta sẽ là toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến” [42,tr.33]

Khi khả năng hòa hoãn không còn nữa, mọi nhân nhượng đến giới hạn cuối cùng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động kháng chiến toàn quốc.

Ngay từ những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, đường lối kháng chiến của Đảng đã sớm được hình thành trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946) Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Thường vụ Trung ương Đảng (22-12-1946) và được giải thích cụ thể trong tác phẩm “ Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp , cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân, cứu nước” [69,tr.480].

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng, công tác chuẩn bị kháng chiến, sẵn sàng chiến đấu được tiến hành hết sức khẩn trương. Các thành phố, thị xã đều xúc tiến kế hoạch tác chiến.

Chiến trường Chiến khu 3 gồm những tỉnh có đô thị lớn có đường giao thông chiến lược quan trọng như: Nam Định, Kiến An, Hải Phòng… Theo hiệp định sơ bộ địch được đóng trú tại đây từ đầu tháng 3 năm 1946. Tháng 3- 1947, địch cho một tiểu đoàn biệt kích đột nhập vào thị xã Thái Bình nhằm mục đích: Thăm dò lực lượng của ta, chặn đường tiếp viện, giải vây quân chúng đang bị ta xiết chặt vòng vây ở thành phố Nam Định, cài lại tổ chức gián điệp, đồng thời đưa 1 số linh mục người Pháp về Hà Nội. Chúng chỉ đóng ở đây 2 ngày, 2 đêm rồi bí mật rút lui.

Thái Bình tạm thời là vùng tự do, chưa bị chiếm đóng nên có nhiều nhân lực, vật lực cung cấp cho tiền tuyến và chuẩn bị kháng chiến tại chỗ khi chiến tranh lan tới. Nhưng trước tình hình thực dân Pháp tăng cường càn quét nhằm mở rộng vùng chiếm đóng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, mở rộng vùng ven đường quốc lộ 5. Liên khu ủy khu 3 nhận định: thế nào địch cũng đánh Thái Bình và chỉ thị cho tỉnh phải tăng cường công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, lập các phương án tác chiến, chú trọng phát triển sản xuất…

Để tiến hành chiến tranh nhân dân phải tiến hành vũ trang cho nhân dân, phát động phong trào dân quân. Đó “là cách hiệu nghiệm động viên toàn dân tham gia tác chiến; là cách tổ chức và rèn luyện đội quân hậu bị hết sức dồi dào để bổ sung và tiếp ứng cho quân chính quy, để đánh lâu dài” [76, tr.314].

“ Toàn dân và dân quân du kích bổ sung cho quân đội chính quy. Dân quân nhiều làng, nhiều tổng hợp lại cùng đánh có thể thành đội du kích địa phương; đội du kích địa phương tiến bộ, họp lại cùng đánh, có thể thành quân chính quy. Trong cuộc kháng chiến lâu dài của ta, từ thường dân đến quân chính quy, có một quá trình phát triển luôn luôn không dứt. Ta xem đó đủ biết, nhân dân là nguồn nhân lực của bộ đội và dân quân du kích là nơi tuyển lựa đội viên, rèn luyện chiến sĩ. Dân quân mạnh thì bộ đội khỏe, Dân quân du kích và quân đội chính quy cùng khỏe thì nhất định thắng” [41,tr.315 và 316]. “ Trong chiến tranh ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực

lượng hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn thì người đó thu được thắng lợi” [75,tr.173].

Căn cứ vào tình hình thực tế, ngày 21-2-1947 Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thái Bình đã họp và nhất trí tách Ủy ban quân sự thuộc Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh để thành lập Tỉnh đội dân quân.

Tháng 3-1947, Chính phủ quyết định đổi tên “Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia Việt Nam” thành “ Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân tự vệ Việt Nam”; đồng thời quyết định thành lập các Ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội, xã đội dân quân thuộc ủy ban hành chính các cấp.

Ngày 20-4-1947 Tỉnh đội dân quân Thái Bình chính thức ra mắt tại khu nhà Séc trong sân vận động phủ Sóc – Kiến Xương, đồng chí Vũ Đan Tùng giữ chức Tỉnh đội trưởng. Sau khi thành lập Tỉnh đội dân quân, các huyện đội, xã đội dân quân trong toàn tỉnh đều được thành lập và đi vào hoạt động. Sự ra đời của Tỉnh đội dân quân, các huyện đội, xã đội dân quân là cột mốc đánh giá sự phát triển của lực lượng vũ trang trong tỉnh. Sự kiện này cũng khẳng định công cuộc chuẩn bị cho kháng chiến về mặt quân sự của Đảng bộ, quân dân Thái Bình đã có bước phát triển mới.

Giữa năm 1947, Ban chỉ huy mặt trận Thái Bình được thành lập gồm: đại biểu Vệ quốc quân (tiểu đoàn 53), đại biểu cảnh vệ Tỉnh đội ; đại biểu dân quân du kích.

Ở các huyện, lực lượng vũ trang lúc này có từ 1 trung đội đến 1 đại đội. Khi bổ sung quân số cho tỉnh, huyện lại lựa chọn một số dân quân tự vệ các xã thành lập đơn vị du kích tập trung của các huyện. Từ chỗ do Mặt trận Việt Minh tổ chức lãnh đạo chỉ huy, từ tháng 3-1947 lực lượng bán vũ trang của Thái Bình và các địa phương trên toàn quốc thống nhất gọi là dân quân và du kích do cấp ủy chính quyền các xã trực tiếp lãnh đạo chỉ huy. Đây là các mốc lịch sử đánh dấu ba thứ quân của quân đội ta chính thức hình thành.

Về tổ chức dân quân gồm nam giới và nữ giới từ 18 đến 45 tuổi, chia thành các trung đội, tiểu đội do xã đội, thôn đội trực tiếp chỉ huy, làm nhiệm vụ canh gác giữ làng. Riêng du kích được tổ chức chặt chẽ hơn, gồm những người tích cực nhất trong dân quân, cũng như ở các đoàn thể, không phân biệt già trẻ, nam nữ phiên chế thành các tiểu đội, trung đội nam du kích, nữ du kích, lão du kích và thiếu nhi du kích. Điều kiện trở thành du kích phải qua sự giới thiệu của đoàn thể hoặc tập thể du kích nhận xét.

Dân quân du kích tổ chức theo hệ thống thôn, xã. Thôn có du kích và dân quân do thôn đội chỉ huy. Xã đội chỉ huy chung và trực tiếp điều động dân quân du kích ở các thôn. Riêng xã có lực lượng du kích tập trung.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng, ngày 25-1-1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh 120-SL thành lập Liên khu 3 trên cơ sở hợp nhất Chiến khu 2, Chiến khu 3 và Chiến khu 11, gồm các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình và Hòa Bình. Từ giai đoạn này,công tác quân sự tỉnh Thái Bình đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Liên khu ủy – Bộ Tư lệnh Liên khu 3.

Sau một thời gian thực hiện chủ trương phát triển lực lượng vũ trang cơ sở, đến tháng 8-1948, số dân quân trong toàn tỉnh phát triển lên tới 115.000 người, du kích có trên 15.000 người. Đến tháng 8-1949, số lượng dân quân du kích toàn tỉnh có 160.191 người trong đó có 34.000 du kích. Mỗi xã trung bình có 150 du kích như Cổ Tuyết (Quỳnh Côi), Thần Huống (Thái Ninh).

Tuy lực lượng đông, nhưng vũ khí trang bị của dân quân du kích còn rất thiếu thốn. Hầu hết mới chỉ có mìn, lựu đạn, gươm đao, mã tấu. Để đảm bảo vũ khí trang bị, tỉnh ủy chủ trương thành lập công binh xưởng của Tỉnh và thành lập các tổ sửa chữa vũ khí của mỗi huyện. Chủ trương đúng đắn trên đã từng bước đáp ứng được một phần nhu cầu trang bị cho dân quân du kích. Nhân dân các xã đều tổ chức Hội bảo trợ dân quân và phát động phong trào

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 25/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí