CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
1.1. Các lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu đề tài
1.1.1. Lý thuyết nhu cầu
Hình 1.1 Tháp nhu cầu của Maslow
Theo Abraham Maslow (1908-1970), nhà tâm lý học người Mỹ, được thế giới biết đến như là nhà tiên phong trong trường phái tâm lý học nhân văn bởi hệ thống lý thuyết về thang bậc nhu cầu của con người, con người là một thực thể sinh - tâm lý xã hội, do đó con người cần có nhu cầu cho sự sống và nhu cầu xã hội. Maslow chia nhu cầu của con người thành 5 thang bậc từ thấp đến cao: Nhu cầu sống (không khí, nước, thức ăn, quần áo, nhà cửa…); nhu cầu an toàn (an toàn thân thể, không bị đe dọa, tình yêu thương…); nhu cầu về xã hội (tình yêu, giao lưu tình cảm, hòa nhập, được thừa nhận…); nhu cầu được tôn trọng (tự tôn trọng, tôn trọng người khác và được người khác tôn trọng…); nhu cầu về tự thể hiện, hoàn thiện (nhu cầu về nhận thức, thẩm mỹ, thực hiện mục đích bằng khả năng của chính mình).[4]
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách Công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 1
- Chính sách Công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 2
- Những Vấn Đề Lý Luận Về Chính Sách Công Tác Xã Hội Trong Giảm Nghèo Bền Vững.
- Chính Sách Công Tác Xã Hội Trong Giảm Nghèo Bền Vững
- Là Một Trong Những Điều Kiện Cần Và Đủ Để Thực Hiện Có Hiệu Quả Chính Sách Giảm Nghèo Bền Vững
- Chính Sách Đảm Bảo Sự Chuyên Nghiệp Trong Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Đối Với Giảm Nghèo:
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
Vận dụng lý thuyết nhu cầu vào việc hỗ trợ, trợ giúp người nghèo không những giải quyết được những nhu cầu cơ bản về vật chất, tinh thần của người nghèo mà còn tạo cho người nghèo có niềm tin vào bản thân, cuộc sống để họ hướng đến những điều tốt đẹp, tránh những tư tưởng tiêu cực, trông chờ, ỷ lại
vào cuộc sống. Thông qua việc trợ giúp người nghèo tiếp cận được những dịch vụ xã hội cơ bản nhằm thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của mình có thể đánh giá được việc tổ chức thực hiện các chính sách và các dịch vụ xã hội cơ bản cũng như khả năng tiếp cận, thụ hưởng các chính sách của người nghèo, từ đó có những đề xuất các giải pháp thiết thực để thực hiện chính sách cũng như tăng cường cung cấp các dịch vụ cơ bản tại địa phương sao cho người nghèo thỏa mãn những nhu cầu xã hội cơ bản của mình.
1.1.2. Thuyết trao quyền
Năm 1987 Furlong xem xét trao quyền là mục đích quan trọng trongcông tác xã hội. Trao quyền được nhấn mạnh trong CTXH với cá nhân, CTXH với nhóm và phát triển cộng đồng. Trao quyền là một tiến trình hỗ trợ tăng cường khả năng cá nhân, nhóm và cộng đồng để bản thân họ tự đưa ra quyết định và chuyển hóa các quyết định thành hành động cụ thể, các kết quả cụ thể. Trọng tâm là các xây dựng năng lực của cá nhân, nhóm và cộng đồng đó. Trao quyền luôn gắn liền với biện hộ và biện hộ là vai trò của CTXH. Trao quyền và biện hộ độc lập với nhau song lại hỗ trợ cho nhau. Trao quyền giúp cho những người yếu thế phát huy được nguồn sức mạnh nội lực, thông qua việc tăng cường năng lực cho họ. Đồng thời trao quyền cần dựa vào biện hộ để huy động nguồn lực ngoài cộng đồng. [5]
Vận dụng lý thuyết trao quyền trong hỗ trợ người nghèo, cộng đồng nghèo sẽ giúp họ đưa ra các quyết định đúng đắn nhất và phù hợp nhất với cuộc sống thực tại của họ từ đó có những hành động cụ thể để thực hiện quyết định, mục tiêu mà họ đề ra. Thông qua việc trao quyền cho các nhân và cộng đồng nghèo để đánh giá việc hỗ trợ cá nhân và cộng đồng nghèo của chính quyền địa phương trong việc thực hiện các chính sách, chương trình và dự án trên địa bàn, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh việc phân cấp, trao quyền cho các cá nhân và cộng đồng nghèo trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, chương trình và dự án giảm nghèo trên địa bàn.
1.1.3. Thuyết phát triển cộng đồng
Thuyết phát triển cộng đồng: của Community Development xuất hiện vào những năm 1940; Thuyết phát triển cộng đồng đưa ra nguyên lý của phát triển cộng đồng dựa trên nguyên lý phát triển xã hội, mà nguyên lý phát triển xã hội dựa trên nguyên lý phát triển tổng quát. Theo nguyên lý này, phát triển cộng đồng có ba khía cạnh là tính tương đối, tính đa dạng và tính bền vững.
Phương pháp CTXH được xây dựng trên những nguyên lý, nguyên tắc và giả định của khoa học như: tâm lý xã hội, xã hội học, chính trị học, nhân chủng học…, được áp dụng ở nhiều nước và đã phát huy vai trò trong việc giải quyết các vấn đề của người nghèo, người yếu thế. CTXH đã giải quyết vấn đề thông qua đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, hướng tới nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
Ứng dụng lý thuyết phát triển cộng đồng trong hỗ trợ cộng đồng nghèo có nghĩa hết sức quan trọng. CTXH có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ một cộng đồng nghèo, kém phát triển theo nguyên lý phát triển cộng đồng. CTXH khơi dậy, phát huy nội lực của cá nhân và cộng đồng nghèo trong quá trình tổ chức các hoạt động trợ giúp chuyên nghiệp như: nhận diện cộng đồng nghèo, lập kế hoạch có sự tham gia của người dân, tăng năng lực của cộng đồng thông qua tăng nội lực và giúp cộng đồng tự lực phát triển.
1.1.4. Thuyết về quyền con người:
Tiếp cận dựa trên quyền con người là một khung lý thuyết có chứa đựng các nguyên tắc, tiêu chuẩn và mục tiêu của hệ thống quyền con người trong quá trình lập kế hoạch và tiến trình thực hiện các hoạt động CTXH.
Cách tiếp cận dựa trên quyền lấy nền tảng cơ bản chính là hệ thống quyền con người đã được pháp luật quốc tế bảo vệ. Với cách tiếp cận theo quyền, nhân viên xã hội cần dựa trên hệ thống quyền con người để xây dựng các phương pháp và hoạt động của những mô hình phát triển xã hội. Theo cách tiếp cận dựa trên quyền con người, vấn đề phân biệt kỳ thị, yếu thế, thiệt thòi và bóc lột sức lao động là nguyên nhân chủ yếu của đói nghèo. Cách tiếp cận
này luôn đưa ra đối tượng tác động cụ thể, đó chính là con người với quyền cơ bản của mình. Nhân viên CTXH thực hiện việc trao quyền cho con người thực hiện các quyền của mình, đồng thời đảm bảo những bên có nghĩa vụ thực hiện quyền của mình.
Quyền con người là được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, tiếp cận thông tin…, nhưng đối với người nghèo thì dường như họ lại không được tiếp cận tới các dịch vụ xã hội cơ bản này nếu không nhận được sự hỗ trợ của nhà nước. Do đó, trên phương diện vĩ mô, cách tiếp cận dựa trên quyền con người có bàn đến tầm quan trọng của Nhà nước trong mối quan hệ tương tác với công dân của họ về mặt quyền và nghĩa vụ. Cách tiếp cận theo quyền làm cho Nhà nước phải quan tâm chăm lo đời sống của những người dân dễ bị tổn thương trong đó có người nghèo.
Tiếp cận dựa vào quyền không chỉ tạo điều kiện cho chính người nghèo thấy được tầm quan trọng của bản thân trong hệ thống xã hội và cộng đồng nơi mình sinh sống để người nghèo không bị tâm lý mặc cảm, tự ti mà qua đó giúp họ có ý thức vươn lên trong cuộc sống để thoát nghèo bền vững.
Vận dụng thuyết này vào CTXH với người nghèo giúp nhân viên CTXH nhận biết được quyền lợi cơ bản của người nghèo cũng như nghĩa vụ của người nghèo thông qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống chính sách giảm nghèo hiện hành cũng như Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững của từng giai đoạn. Thông qua việc thực hiện các chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ cho người nghèo tại địa phương để đánh giá mức độ phù hợp trong việc tiếp cận dựa trên quyền của người nghèo, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận dựa trên quyền của con người trong đó có người nghèo. Từ các đánh giá đó, đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao việc thực hiện quyền của người nghèo dựa vào tình hình, hoàn cảnh thực tế của người nghèo.
1.2. Các khái niệm sử dụng trong nghiên cứu
1.2.1. Chính sách xã hội:
Xét về nội hàm: Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã xác định: CSXH thường hướng vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Các CSXH thể hiện tính trách nhiệm, mang hàm nghĩa văn hóa – văn minh, phản ánh tính chất tiến bộ, đảm bảo công bằng của xã hội. CSXH lấy con người làm trung tâm, làm đối tược tác động trực tiếp và do vậy, tất cả nội dung, mục tiêu của chính sách đều hướng tới con người. CSXH mang tinh nhân văn, nhân bản sâu sắc, nó thể hiện truyền thống nhân đạo tốt đẹp của một dân tộc.
Xét theo chức năng: CSXH định hướng cho sự vận động của xã hội. Nó xuất phát từ thực tiễn các vấn đề xã hội của đất nước. Đồng thời CSXH cũng là công cụ quản lý xã hội, thể hiện ý chí của Đảng, Nhà nước. Chính vì vậy nó là một phương tiện quan trọng định hướng mọi hoạt động và hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động trong lĩnh vực xã hội theo những mục tiêu, phương hướng đã định trước của nhà nước. CSXH điều chỉnh các vấn đề xã hội, chức năng này thể hiện ở chỗ, để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của của nền kinh tế thị trường, Nhà nước sử dụng công cụ chính sách để điều chỉnh của các mối quan hệ xã hội, tác động vào quá trình phân phối thu nhập, tạo cơ hội phát triển cho các đối tượng thế yếu, bị ảnh hưởng. CSXH là loại chính sách liên quan đấn con người và bao trùm mọi mặt cuộc sống của con người, các nhóm người trong cộng đồng làm đối tượng tác động để hoàn thiện và phát triển toàn diện con người; lấy con người làm trung tâm, coi trọng yếu tố con người. CSXH còn có chức năng thúc đẩy sự phát triển.
Từ cách tiếp cận trên, khái niệm CSXH có thể hiểu sự thể chế hóa, cụ thể hóa các giải pháp của Nhà Nước trong việc giải quyết vấn đề xã hội liên quan tới từng nhóm người hay toàn bộ dân cư, trên cơ sở phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng, nhằm hướng tới công bằng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con người.
1.2.2. Công tác xã hội, công tác xã hội đối với người nghèo
Công tác xã hội: Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh (trích từ tài liệu hội thảo 2004) thì CTXH là hoạt động giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu nào đó. Công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ con người, tăng năng lực cá nhân, cộng đồng và xã hội, trên cơ sở vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, CTXH tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. CTXH như một tiến trình giải quyết vấn đề, đáp ứng các nhu cầu, kết nối nguồn lực xã hội và thúc đẩy khả năng tự quyết của thân chủ, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ, hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến.
- Công tác xã hội đối với người nghèo là tiến trình tác động tới người nghèo bằng phương pháp CTXH nhằm giúp cho người nghèo khai thác tiềm năng, thế mạnh, khắc phục hạn chế mà trước hết là nâng cao năng lực của bản thân người nghèo để cải thiện sinh kế, tăng thu nhập kết nối nguồn lực. Tạo điều kiện cải thiện chất lượng cuộc sống cho người nghèo thông qua các CSXH, tiếp cận thông tin, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm kết nối người nghèo vơi cộng đồng và xã hội, tiếp cận, can thiệp bằng phương pháp CTXH cá nhân, nhóm, cộng đồng thực hiện chức năng phòng ngừa, chữa trị, phục hồi, phát triển. Thông qua CTXH đối với người nghèo thúc đẩy không chỉ cho người nghèo mà qua đó để giải quyết hài hòa giữa mối quan hệ xã hội, xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội văn minh. Mục tiêu cuối cùng của CTXH với người nghèo là giúp thành viên học cách thực hiện chức năng của mình để đáp ứng về các nhu cầu về phát triển cả về mặt tâm lý, tình cảm và xã hội cho tất cả các thành viên trong gia đình (Colins, Ordan và Coleman, 2007). Các mục tiêu cụ thể: tăng cường sức mạnh của cá nhân và gia đình để mọi người sẵn sàng cho những thay đổi tốt hơn; Cung cấp thêm những dịch vụ can thiệp cá nhân và gia đình để duy trì thực hiện chức năng một cách hiệu quả; tạo ra
những thay đổi cụ thể trong việc thực hiện chức năng của gia đình nhằm duy
trì hoạt động để đảm bảo tốt cuộc sống hàng ngày của mọi thành viên trong gia đình.
1.2.3. Giảm nghèo
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về nghèo được thể hiện qua rất nhiều quan niệm khác nhau, chúng ta có thể hiểu: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương” (Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc – Thái Lan tháng 9/1993 ). Theo quan niệm này, nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương. Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế. Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một vùng.
Ở Việt Nam trước đây có hai khái niệm: đói và nghèo. Tuy nhiên, đến năm 2000, Chính phủ công bố Việt Nam không còn tình trang đói nên không còn sử dụng khái niệm này. Còn nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cồng đồng xét trên mọi phương diện. Biểu hiện của sự nghèo khổ là thiếu ăn, thiếu mặc, nhà ở dột nát, nước uống không hợp vệ sinh, thiếu vốn, thiếu đất, thiếu phương tiện sản xuất, thiếu kiến thức, con cái thất học, phong tuc tập quán lạc hậu, thiếu việc làm hoặc việc làm không hiệu quả….Ở Việt Nam tình trạng nghèo xuất phát từ nguyên nhân khách quan như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (hạn hán, bão lụt, thiên
tai, đất khô cằn, địa hình phức tạp), kinh tế chậm phát triển, hậu quả của chiến
tranh. Song về chủ quan, đối với phía Nhà Nước là do thiếu, không đồng bộ về cơ chế, chính sách hoặc cơ chế chính sách thiếu tính khả thi, thực hiện kém hiệu quả; nguyên nhân về phía người nghèo là do thiếu vốn, thiếu kiến thức, thiếu thông tin, thiếu tư liệu và phương tiện sản xuất, ốm đau, bệnh tật, đông con, không tìm được việc làm, lười lao động, rủi ro,…Mặt khác, một trong những mặt trái của nền kinh tế thị trường là sự phân hóa giàu nghèo, đồng thời với một bộ phận giàu lên, còn có một bộ phận vì nhiều nguyên nhân khác nhau sẽ bị rơi xuống nghèo khổ cũng là nguyên nhân dẫn đến nghèo.
Để xác định người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, Chính phủ ban hành chuẩn hộ nghèo phù hợp với điều kiện và tình hình kinh tế - xã hội của từng thời kỳ. Người nghèo là người thuộc thành viên của hộ được xác định là hộ nghèo. Hộ nghèo là hộ được xác định trên cơ sở đảm bảo các điều kiện theo quy định của chuẩn hộ nghèo. Huyện nghèo, xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn là huyện, xã thỏa mãn các tiệu chí về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội và tỷ lệ hộ nghèo, sau mỗi lần thay đổi đều có xu hướng ngày càng nâng lên mức sống theo sự phát triển của nền kinh tế xã hội, khả năng cân đối ngân sách và phương pháp tiếp cận gần dần với chuẩn nghèo của thế giới, với định hướng nhằm đảm bảo giảm nghèo bền vững.
Từ năm 2016, tức giai đoạn 2016-2020 lần đầu tiên chính phủ ban hành chuẩn nghèo theo hướng tiếp cận đa chiều. Theo đó, có hai tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều là tiêu chí về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản. Phương pháp đo lường nghèo đa chiều được nghiên cứu, áp dụng sẽ khắc phục hạn chế của phương pháp đo lường nghèo bằng thu nhập. Đặc biệt bối cảnh kinh tế - xã hội thay đổi, đô thị hóa và hiện tại Bình Dương với số lượng dân nhập cư tăng nhanh hiện nay đang tạo ra một bộ phận lớn người dân thuộc nhóm cận nghèo chưa có điều kiện tăng thu nhập hoặc chưa được tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ xã hội cơ bản, đang đối mặt với nhiều rủi ro khiến họ có thể rơi vào tình trạng nghèo. Với mục đích hoạt động tốt hơn, toàn diện hơn đến người nghèo, việc chuyển đổi đánh giá nghèo từ đơn chiều sang đa chiều nhằm hạn chế việc bỏ sót những đối tượng tuy không nghèo về