Chính sách Công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 2

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 1: Nhu cầu của hộ nghèo về dịch vụ phúc lợi xã hội


Biểu đồ 2: Trình độ học vấn của cán bộ, nhân viên CTXH ở Bình Dương năm 2018 (người)

TÓM TẮT LUẬN VĂN


Giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư, là một trong những nội dung quan trọng để thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Để chương trình, chính sách giảm nghèo đến với người nghèo thì cần có độ ngủ nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong trợ giúp người nghèo, thoát nghèo bền vững là hết sức cần thiết nhằm phát huy tối đa hiệu quả nguồn lực. Dựa trên lý thuyết về nhu cầu của Masslow thì nhu cầu việc hỗ trợ, trợ giúp người nghèo không những giải quyết được những nhu cầu cơ bản về vật chất, tinh thần của người nghèo mà còn tạo cho người nghèo có niềm tin vào bản thân; tiếp thêm động lực giúp người nghèo vươn lên từ nội lực; tiến hành khảo sát theo phương pháp thiết lập bảng hỏi thì qua kết quả khảo sát tại địa bàn huyện Bắc Tân Uyên và thị xã Dĩ An cho thấy nhu cầu về hỗ trợ y tế (4,66%); nhu cầu về vốn tín dụng ưu đãi (4,50%). Qua đây chúng ta cũng thấy các cấp chính quyền của tỉnh Bình Dương rất quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe cho người dân đặc biệt là người nghèo và việc hỗ trợ vay vốn là một trong những vấn đề rất được quan tâm hiện nay. Luận văn còn vận dụng lý thuyết trao quyền trong hỗ trợ người nghèo, cộng đồng nghèo sẽ giúp người nghèo đưa ra các quyết định đúng đắn nhất và phù hợp nhất với cuộc sống thực tại của họ từ đó có những hành động cụ thể để thực hiện quyết định, mục tiêu mà họ đề ra. Với việc kết hợp các phương pháp dùng bản hỏi để thu thập thông tin thì tác giả còn phối hợp nhiều phương pháp phân tích tài liệu có sẳn, phương pháp phỏng vấn sâu, chúng ta thấy rằng chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiển tỉnh Bình Dương cần được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Cho nên khi đi vào nghiên cứu các vấn đề liên quan đến các đối tượng này chúng ta phải xác định trước hết đó là vì nhân tố

phát triển con người, nhằm đảm bảo các nhu cầu chính đáng của đối tượng từ đó góp phần vào phát triển và ổn định xã hội.

Tóm lại: Giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà Nước nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư. Nhờ những hoạt động CTXH đối với người nghèo các chính sách ưu đãi người nghèo như chính sách tín dụng, hỗ trợ sản xuất; chính sách về giáo dục, y tế; chính sách hỗ trợ về nhà ở, cứu đói và trợ cấp đột xuất, tai nạn rủi ro, hạn hán lũ lụt, người nghèo ngày càng tiếp cận tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản, đời sống của đại bộ phận người nghèo không ngừng được cải thiện và ổn định.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chính sách Công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 2

Giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư, là một trong những nội dung quan trọng để thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính sách giảm nghèo đã và đang được hoàn thiện, mang tính hệ thống, hỗ trợ hiệu quả và toàn diện đối với người nghèo.

Thông qua thực hiện đồng bộ hệ thống chính sách giảm nghèo, Việt Nam đã đạt được một bước tiến ấn tượng trong công tác giảm nghèo những năm vừa qua. Năm 2010 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 58% (năm 1993) xuống còn 14,2% (năm 2010) và dưới 4,5% (năm 2015)... Cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường, đời sống người dân không ngừng được cải thiện cả về sinh kế và tiếp cận các dịch vụ xã hội. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế vinh danh, được Liên Hiệp Quốc đánh giá là một trong các nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. [1]

Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, chương trình giảm nghèo giai đoạn 2011-2015, công tác xã hội đã trở thành một trong những công cụ giúp người nghèo giảm nghèo bền vững. Công tác giảm nghèo trên cả nước nói chung, trên địa bàn tỉnh Bình Dương nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo giảm khá nhanh, đạt được mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, giảm nghèo còn chưa bền vững, tái nghèo cao; một số chính sách hỗ trợ người nghèo còn thực hiện chưa triệt để dẫn đến một bộ phận người nghèo còn có thái độ trông chờ, ỷ lại; cơ chế phân cấp, trao quyền cho người dân chưa thực sự triệt để; nguồn lực cho giảm nghèo còn thấp, chủ yếu dựa vào ngân sách… Điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng một nguyên nhân quan trọng là chúng ta chưa có một đội ngũ nhân viên công

tác xã hội (CTXH) chuyên nghiệp, những cán bộ làm công tác giảm nghèo đa phần lại kiêm nhiệm và thiếu các kiến thức, phương pháp và kỹ năng CTXH trong việc hỗ trợ cho người nghèo.

Trong thời gian tới, việc phát huy và tăng cường các hoạt động CTXH chuyên nghiệp trong trợ giúp người nghèo thoát nghèo bền vững là hết sức cần thiết nhằm phát huy tối đa hiệu quả nguồn lực, sự phối kết hợp của các cơ quan, ban ngành cũng như sự tham gia tích cực của người dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát các chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo. Vì vậy, tôi chọn đề tài luận văn “chính sách Công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” làm đề tài luận văn cao học công tác xã hội.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở Việt Nam trong những năm qua cũng có rất nhiều công trình và đề tài khoa học nghiên cứu về vấn đề nghèo và giảm nghèo như:

Lê Quốc Lý chủ biên, xuất bản năm 2012: Trong sách chuyên khảo “Chính sách xóa đói giảm nghèo – Thực trạng và giải pháp” [2] của Đã nêu một số lý luận về xóa đói, giảm nghèo; những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo; thực trạng đói nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010; một số chương trình xóa đói, giảm nghèo điển hình của Việt Nam thời gian qua; đánh giá tổng quát thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian tới; một số cơ chế nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam; giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam thời gian tới. Đây là cuốn sách bổ sung luận cứ cho công tác hoạch định chính sách xóa đói, giảm nghèo, bổ sung tư liệu cho công tác đào tạo, nghiên cứu về chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam.

Nguyễn Đức Nhật và nhóm chuyên gia (2013) đã có công trình “Nghiên cứu mô hình giảm nghèo của các đối tác quốc tế ở Việt Nam“, Báo cáo trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ thực hiện Nghị quyết 80/NQ-CP về định hướng giảm

nghèo bền vững (2011-2020) và Chương trình mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo bền vững (2012-2015)”, do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổ chức UNDP, Tổ chức Iris Aid đã tài trợ. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định: tình trạng đói nghèo ở mỗi vùng miền có đặc tính khác nhau và cần các phương pháp tiếp cận khác nhau; trong thực thi cần chú trọng tính tự chủ của địa phương, sự tham gia của người dân và lựa chọn đối tác triển khai phù hợp. Quá trình phân tích chỉ ra rằng, mô hình của các tổ chức quốc tế thành công hơn bởi họ tuân thủ các nguyên tắc của lý thuyết kinh tế, xây dựng động lực tham gia của các bên và trao quyền tự quyết cho người dân. Các mô hình quốc tế cũng triển khai theo hướng nhỏ, chậm chắc và chú trọng về nâng cao năng lực so với các chương trình đại trà nhanh và thiếu kiểm tra đánh giá của nhà nước.

Phạm Thái Hưng và cộng sự (2010) có bài “Nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam Thực trạng và thách thức tại các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135-II”. Nghiên cứu này đã khai thác các khía cạnh quan trọng về mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS); mô tả một cách toàn diện về tình trạng nghèo và vấn đề mức sống của nhóm DTTS ở các xã đặc biệt khó khăn. Mô tả này tập trung ở khía cạnh nghèo về thu nhập và các khía cạnh phi tiền tệ của vấn đề mức sống kinh tế (như: tiếp cận giáo dục, dịch vụ y tế và phát huy tính chủ động...). Đồng thời nghiên cứu về các yếu tố quyết định chênh lệch thu nhập giữa nhóm đa số và nhóm DTTS khác bằng cách phân tích chênh lệch thu nhập: một là khác biệt về các đặc điểm và nguồn lực giữa các nhóm dân tộc, hai là sự khác biệt về thu nhập từ các đặc điểm và nguồn lực, ba là đã tìm hiểu đồng bào các DTTS nghèo được hỗ trợ từ những chính sách và chương trình hiện tại như thế nào. Sau những phân tích đó tác giả đã có những kiến nghị cho các chính sách và chương trình trong tương lai nhằm đưa ra những hỗ trợ hiệu quả hơn cho việc nâng cao mức sống đối với nhóm DTTS.

Chương trình Chia Sẻ - SIDA (2009), báo cáo “Các nhân tố hỗ trợ và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo bền vững”

trong khuôn khổ thực hiện các dự án nâng cao năng lực phát triển cộng đồng đã xác định những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn lực để giảm nghèo bền vững. Theo đó, 5 nguồn vốn sinh kế đã được phân tích bao gồm: nguồn vốn con người; nguồn vốn vật chất; nguồn vốn tài chính; nguồn vốn xã hội; nguồn vốn tự nhiên. Nghiên cứu cũng chỉ rõ: sự đóng góp các nguồn vốn sinh kế vào trong quá trình giảm nghèo đối với các nguồn vốn có sự khác nhau. Vì vậy, cần có cách điều chỉnh khác nhau trong việc tác động các nguồn vốn sinh kế vào mục tiêu giảm nghèo. Xét trong ngắn hạn, nguồn vốn tài chính và một phần nguồn vốn con người có tác động tích cực trong quá trình giảm nghèo. Việc hỗ trợ gia tăng nguồn vốn tài chính từ các kênh khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của hộ. Và điều này mang lại kết quả giảm nghèo trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ gia tăng nguồn vốn con người từ việc đào tạo tập huấn ngắn hạn cũng có tác động nhanh chóng. Xét về trung hạn, sự gia tăng nguồn vốn con người trên khía cạnh giáo dục, cơ sở hạ tầng sẽ mang lại kết quả giảm nghèo về trung hạn, ít nhất là trong thời hạn từ 3 - 5 năm. Ví dụ, việc xây dựng đường giao thông hay cầu cống chỉ mang lại hiệu quả tốt cho giảm nghèo khi mà sản xuất của họ đã phát triển đến mức có thể tiếp cận với thị trường để gia tăng thu nhập. Hoặc là việc đào tạo chỉ có tác dụng tốt khi người dân được đào tạo đã có quá trình tích lũy kiến thức để có thể phát huy trong đời sống và sản xuất.

Viện Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2011 “Giảm nghèo tại Việt Nam; Thành tựu và Thách thức” [3] Báo cáo đã chỉ ra những thành tựu trong giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn qua là rất tốt, nhưng không đồng đều và chưa bền vững; Chương trình giảm nghèo trong bối cảnh kinh tế mới trong giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới và những thách thức đi kèm trong giai đoạn tới. Báo cáo cũng đã bước đầu chỉ ra phương pháp đo lường nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn tới cần có sự thay đổi theo hướng người nghèo cần tiếp cận được với các dịch vụ xã hội cơ bản.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2015), thực hiện “Đề án tổng thể chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều dựa vào thu nhập sang đa chiều áp dụng trong giai đoạn 2016 – 2020”. Đề án chỉ ra rằng, nghèo đói thường được xác định dựa trên thu nhập hoặc chi tiêu và chuẩn nghèo được xác định bằng tổng thu nhập của hộ gia đình. Hộ gia đình có nghèo hay không chỉ dựa vào cách tính thu nhập của hộ gia đình mà xác định được. Do đó cách xác định này đã bộc lộ những hạn chế như: một số nhu cầu cơ bản của con người không thể quy ra tiền (như tham gia xã hội, an ninh, vị thế xã hội, v.v…) hoặc không thể mua được bằng tiền (tiếp cận giao thông, thị trường và các loại cơ sở hạ tầng khác, an ninh, môi trường, một số dịch vụ y tế, giáo dục, v.v…); có những trường hợp hộ gia đình có tiền nhưng sống trong điều kiện môi trường sống khắt khổ với lí do hộ gia đình đó không chi tiêu vào việc đáp ứng những nhu cầu tối thiểu, cơ bản. Điều này cho thấy việc áp dụng duy nhất tiêu chí thu nhập để xác định hộ nghèo đã dẫn đến sự phân loại đối tượng, đánh giá mức độ và nguyên nhân nghèo chưa chính xác vì không phản ánh đầy đủ nguyên nhân nghèo, phản ánh đầy đủ nhu cầu cơ bản, cũng như mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Xây dựng chính sách giảm nghèo dựa trên cơ sở sự thiếu hụt về thu nhập của hộ để chi trả dịch vụ. Như vậy, chưa tính đến các yếu tố không tiếp cận được là do dịch vụ không có sẵn hoặc không phù hợp hoặc do người dân từ chối sử dụng. Từ đó chỉ ra cần thay đổi và áp dụng phương pháp xác định nghèo đa chiều.

Nguyễn Minh Lập (2016): Đề tài luận văn thạc sỹ “Quản lý công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Bến Tre” đã nghiên cứu một số lý luận và thực tiễn về CTXH, quản lý CTXH trong giảm nghèo bền vững; đánh giá về pháp luật, cơ chế chính sách về CTXH, thực trạng về quản lý CTXH đối với người nghèo. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp và nâng cao hiệu quả công tác quản lý CTXH với người nghèo từ thực tiễn tỉnh Bến Tre.

Ngoài ra còn nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu của nhiều tác giả khác, mỗi tác giả nghiên cứu ở những góc độ khác nhau của vấn đề đói

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/03/2023