Tác Động Của Chính Sách Cổ Tức Đến Giá Trị Thị Trường.


đánh giá cao vì nó chứng tỏ các ngân hàng thương mại có chiến lược kinh doanh phát triển bền vững trong dài hạn.

Và cuối cùng, cổ tức ổn định là một đòi hỏi mang tính pháp lý. Nhiều định chế điều phối tài chính như các quỹ đầu tư, quỹ hưu bổng và các công ty bảo hiểm thường bị giới hạn về loại cổ phần thường mà họ được phép sở hữu do đó đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có một thành tích cổ tức liên tục và ổn định. Việc không chi trả hay cắt giảm một lượng cổ tức có thể sẽ làm giảm thị trường tiềm năng cho cổ phần của các ngân hàng thương mại và có thể làm giá cổ phần sụt giảm.

1.3.3. Chính sách cổ tức sử dụng phần có dư.


Chính sách cổ tức sử dụng phần có dư là chính sách cổ tức dựa vào xác định cơ cấu cốn mục tiêu được tài trợ của những dự án đầu tư kết hợp giữa nợ và vốn chủ sở hữu gồm thu nhập giữ lại hay bổ sung thêm vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới. Phần còn thu nhập dư ra nếu còn sẽ đem đi chi trả dưới dạng cổ tức cho các cổ đông.

1.3.4. Chính sách cổ tức dung hòa.


Chính sách cổ tức dung hòa là chính sách cổ tức tránh cắt giảm những dự án đầu tư có khả năng sinh lợi để chi trả cổ tức và ngược lại cũng trách cắt giảm cổ tức của các cổ đông. Do đó chính sách cổ tức dung hòa thường duy trì một tỷ lệ chi trả cổ tức và một tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu nhất định nhằm bảo đảm quyền lợi của các cổ đông cũng như cơ hội đầu tư của ngân hàng trong tương lai.

1.4. Tác động của chính sách cổ tức đến giá trị thị trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.


Lúc nghiên cứu vấn đề này nhiều nhà kinh tế học tranh luận với nhiều quan điểm khác nhau. Trường phái hữu khuynh bảo thủ tin rằng một gia tăng trong tỷ lệ chi trả cổ tức sẽ làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Trường phái tả khuynh cấp tiến tin rằng một một gia tăng trong tỷ lệ chi trả cổ tức sẽ làm giảm giá trị của doanh nghiệp. Còn trường phái trung dung lại cho rằng chính sách cổ tức không tác động

Chính sách cổ tức tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán - 4


gì đến giá trị doanh nghiệp. Mỗi trường phái đều có lý lẽ, lập luận và quan điểm riêng của mình.

1.4.1. Chính sách cổ tức không tác động đến giá trị doanh nghiệp.


Theo Miller và Modigliani là hiện thân cho trường phái trung dung khi họ công bố một công trình lý thuyết vào năm 1961 cho rằng giá trị của doanh nghiệp không chịu tác động của chính sách phân phối trong một thế giới không có thuế, không có chi phí giao dịch và không có các bất hoàn hảo của thị trường. Lập luận của Miller và Modigliani đưa ra rằng: Một doanh nghiệp đã thiết lập một kế hoạch đầu tư và cũng đã xác định được số tiền cần tài trợ từ việc vay vốn và số tiền cần tài trợ từ lợi nhuận giữ lại. Số tiền thặng dư còn lại dùng để chi trả cổ tức cho các cổ đông. Điều này có nghĩa rằng nếu doanh nghiệp muốn tăng tỷ lệ chi trả cổ tức mà vẫn muốn giữ nguyên chính sách đầu tư và vốn vay buộc phải phát hành thêm cổ phần và bán các cổ phần này để lấy tiền chi trả thêm cổ tức. Nhưng các cổ đông mới chỉ sẵn lòng trở thành thành viên của doanh nghiệp khi doanh nghiệp chào bán cho họ những cổ phần có giá trị tương đương hoặc lớn hơn mà các cổ đông mới bỏ ra. Trong điều kiện các tài sản, lợi nhuận, các cơ hội đầu tư và giá trị thị trường tấc cả đều không thay đổi, để làm được điều này phải có sự chuyển dịch giá trị từ các cổ đông hiện hữu sang các cổ đông mới. Các cổ đông mới nhận được những cổ phần vừa phát hành và trị giá mỗi cổ phần ít hơn so với trước khi có thông báo thay đổi cổ tức. Các cổ đông cũ sẽ chịu một khoản lõ vốn trên cổ phần của mình, phần lỗ vốn này được bù trừ bằng chính cổ tức tiền mặt mà họ nhận được.


Trước khi chia cổ tức Sau khi chia cổ tức

Cổ đông

mới

Giá trị mỗi cổ phần

trước ….. và

sau khi

chia cổ tức

Cổ đông cũ


Tổng số Tổng số

cổ phần cổ phần

Hình 1.1. Sự dịch chuyển giá trị từ cổ đông cũ sang cổ đông mới, không làm thay đổi giá trị của doanh nghiệp.

Qua mô hình trên ta nhận thấy rằng doanh nghiệp đã chi trả cổ tức bằng 1/3 tổng giá trị của mình và huy động thêm tiền bằng cách bán cổ phần mới. Khoản lỗ vốn của các cổ đông cũ thể hiện bằng sự sụt giảm trong quy mô của các hộp đậm và sẽ được bù trừ một cách tương ứng bởi nguồn tiền được huy động từ các cổ đông mới. Đây là khoản tiền được dùng để chi trả cổ tức cho các cổ đông cũ dưới dạng cổ tức.

Cổ tức được tài trợ bằng Không chia cổ tức, cách phát hành cổ phần không phát hành cổ phần


Cổ đông mới

Cổ đông mới

Cổ phần


Doanh nghiệp

Tiền mặt Tiền mặt


Tiền mặt Cổ phần

Cổ đông cũ

Cổ đông cũ


Hình 1.2. Hai hình thức chuyển dịch giá trị từ cổ đông cũ sang cổ đông mới.

Do đó khi nhận được một khoản chi trả cổ tức tăng thêm, các cổ đông cũ phải chấp nhận một khoản lỗ vốn do sự sụt giảm giá trị của cổ phần. Và các cổ đông kỳ vọng vào một thị trường vốn hoạt động hiệu quả thì họ chỉ có thể tăng tiền bằng hai cách là bán số cổ phiếu mình đang sở hữu hoặc thông qua đại hội cổ đông để tăng chi trả cổ tức. Và dù là dưới hình thức nào đi chăng nữa cũng đã xảy ra một sự chuyển dịch giá trị từ các cổ đông cũ sang cổ đông mới. Sự khác biệt chỉ có hình thức biểu hiện. Trong hình 1.1 sự chuyển dịch giá trị được tạo ra bởi sự pha loãng trong mỗi giá trị cổ phần. Trong hình 1.2 sự chuyển dịch giá trị được tạo ra bởi sự giảm sút trong các cổ phần mà các cổ đông đang nắm giữ.

Qua đó, một doanh nghiệp nếu chi trả cổ tức bằng cách phát hành thêm cổ phần và mỗi cổ phần lúc này sẽ có giá trị ít hơn trước đây do doanh nghiệp đã phát hành nhiều cổ phần hơn trên cùng một khối lượng tài sản. Và để bù đắp cho những cổ đông cũ, họ sẽ được nhận một lượng tiền mặt để bù trừ cho sự sụt giá cổ phần đó (trường hợp 1). Nếu các cổ đông cũ bán đi một số cổ phần họ đang sở hữu, mỗi cổ phần lúc này sẽ có giá trị không đổi nhưng họ lại sở hữu cổ phần ít hơn (trường hợp 2).

Dựa vào lập luận về một số giả định không có thuế, không có chi phí giao dịch, không có chí phí phát hành và một chính sách đầu tư cố định không chịu sự tác động của chính sách cổ tức kết hợp với những chứng cứ thực nghiệm, Miller và Modigliani đã đi đến kết luận rằng:

- Với bất kỳ chính sách cổ tức nào, tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp (hay giá trị doanh nghiệp) là không thay đổi.

- Các thay đổi trong chính sách cổ tức mang nội dung hàm chứa thông tin và nó chỉ ảnh hưởng đến giá cả cổ phần chứ không phải mô hình chi trả cổ tức. Một gia tăng trong cổ tức sẽ chuyển tải thông tin đến các cổ đông là ban điều hành doanh nghiệp dự kiến thu nhập tương lai sẽ cao hơn. Tương tự, một cắt giảm cổ tức xem như truyền đạt thông tin bất lợi về triển vọng lợi nhuận của doanh nghiệp.


- Các thay đổi trong chi trả cổ tức được coi như những tín hiệu cung cấp cho nhà đầu tư về sự đánh giá của ban điều hành đối với lợi nhuận, dòng tiền và triển vọng tương lai của doanh nghiệp.

- Hiệu ứng khách hàng, Miller và Modigliani cũng cho rằng sự hiện diện của khách hàng, các nhà đầu tư ưa thích chính sách cổ tức của một doanh nghiệp nào đó sẽ không có tác động trên giá trị cổ phần. Họ thừa nhận rằng một doanh nghiệp khi thay đổi chính sách cổ tức có thể mất đi một số cổ đông do họ sẽ bán cổ phiếu đang sở hữu và chuyển sang mua cổ phiếu của các doanh nghiệp khác có chính sách cổ tức hấp dẫn hơn. Điều này có thể đưa đến sự sụt giảm tạm thời giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Tuy nhiên các nhà đầu tư khác thích chính sách cổ tức mới lại cho rằng cổ phần của doanh nghiệp bị bán dưới giá và sẽ mua thêm cổ phần. Trong thế giới Miller và Modigliani, các giao dịch này diễn ra ngay tức khắc và không tổn phí cho nhà đầu tư, kết quả là giá trị cổ phần giữ nguyên không thay đổi.

Với việc công bố công trình nghiên cứu về chính sách cổ tức và giá trị doanh nghiệp vào năm 1961, Miller và Modigliani đã đạt được giải Nobel kinh tế. Cho đến nay chúng ta vẫn được quyền tin tưởng mạnh mẽ vào kết luận của Miller và Modigliani dựa trên những giả định thị trường vốn hiệu quả và hoàn hảo. Nhưng vấn đề là không ai có thể khẳng định rằng mô hình của Miller và Modigliani đã là một diễn đạt chính xác về thế giới thực. Do trong thế giới thực thị trường vốn luôn tồn tại những bất hoàn hảo nhất định và do đó sự thay đổi của chính sách cổ tức có thể tác động đến giá trị của doanh nghiệp.

1.4.2. Chính sách cổ tức tác động đến giá trị doanh nghiệp.


Myron Gordon, David Durand và John Lintner lập luận rằng giá trị cổ phần thực sự chịu ảnh hưởng của sự phân chia lợi nhuận cho cổ tức và giữ lại để tái đầu tư. Họ cho rằng một khi không tồn tại những giả định hạn chế trong mô hình của Miller và Modigliani, chính sách cổ tức của một doanh nghiệp trở nên quan trọng hơn vì nó có thể tác động đến giá trị doanh nghiệp.

- Không thích rủi ro. Một cách cụ thể Gordon khẳng định rằng các cổ đông không thích rủi ro có thể thích một mức cổ tức nào đó hơn là hứa hẹn lãi vốn trong


tương lai, vì cổ tức là những thu nhập thường xuyên, chắc chắn trong khi lãi vốn trong tương lai ít chắc chắn hơn. Theo Gordon, cổ tức làm giảm tính bất trắc của các cổ đông, cho phép họ chiết khấu lợi nhuận trong tương lai của doanh nghiệp với một tỷ lệ thấp hơn, do đó làm tăng giá trị doanh nghiệp. Ngược lại, việc không chi trả cổ tức làm gia tăng tính bất trắc của các cổ đông, làm tăng suất chiết khấu và giảm giá cổ phần.

- Chi phí giao dịch. Trong thế giới Miller và Modigliani cho dù các cổ đông nhận được mức cổ tức thấp hay thậm chí không có cổ tức họ vẫn có thể bán bớt một số cổ phần đang nắm giữ để nhận về số tiền đáp ứng nhu cầu lợi nhuận hiện tại của mình. Tuy nhiên trên thực tế việc tồn tại chi phí giao dịch khiến cho các nhà đầu tư phải quan tâm tới việc họ được nhận cổ tức bằng tiền mặt hay lãi vốn. Các khoản chi phí môi giới và chênh lệch lô lẻ (số chứng khoán bán ra ít, không đủ để tạo thành đơn vị mua bán trên thị trường nên khó bán và giá thấp) làm cho việc bán cổ phần này tốn kém và không thể thay thế một các hoàn hảo cho các chi trả cổ tức thường xuyên.

- Thuế. Việc bỏ giả định không có thuế cũng sẽ có tác động đến cổ đông, vì lãi vốn không chịu thuế cho đến khi bán cổ phần. Trong nghiên cứu về chính sách cổ tức từ 1920 đến 1960, John A. Britain nhận thấy rằng thuế suất tăng làm giảm tỷ lệ chi trả cổ tức cho các cổ đông.

- Các chi phí phát hành. Sự hiện của chi phí phát hành khi bán cổ phần mới thường có khuynh hướng làm cho doanh nghiệp ưa thích giữ lại lợi nhuận hơn. Với một chính sách đầu tư của một doanh nghiệp, vừa phải chi trả cổ tức và vừa cần cho đầu tư bắt buộc doanh nghiệp phải huy động vốn cổ phần từ bên ngoài. Tuy nhiên, khi có cơ hội đầu tư nếu huy động vốn từ bên ngoài sẽ phát sinh thêm chi phí phát hành, làm tăng chi phí sử dụng vốn và làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Ngoài ra, chi phí của việc bán các phát hành nhỏ cổ phần nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư thường quá cao cho hầu hết các doanh nghiệp. Vì vậy các doanh nghiệp có đủ các cơ hội đầu tư để có thể sử dụng vốn giữ lại của mình một cách có lợi thường có khuynh hướng thích giữ lại lợi nhuận hơn.


- Chi phí đại diện.Việc chi trả cổ tức (dòng tiền chi ra) làm giảm số lượng lợi nhuận giữ lại có sẵn để tái đầu tư và đòi hỏi sử dụng nhiều vốn cổ phần từ bên ngoài hơn để tài trợ tăng trưởng. Việc huy động vốn cổ phần từ bên ngoài (như bán cổ phần) trong các thị trường vốn làm cho doanh nghiệp phải chịu sự giám sát kỹ lưỡng của các cơ quan điều phối như - ủy ban chứng khoán và thị trường và các nhà đầu tư tương lai, việc này được coi như một chức năng giám sát thành quả của ban điều hành.

Do đó, những nhà lập luận thực hành tin rằng cổ tức rất quan trọng, cả vì nội dung hàm chứa thông tin của doanh nghiệp và vì việc huy động vốn cổ phần từ bên ngoài tốn kém hơn vốn cổ phần giữ lại. Như vậy khi xác lập một chính sách cổ tức tối ưu, một doanh nghiệp nên xem xét ưu tiên của các cổ đông cùng với các cơ hội đầu tư và các chi phí liên quan của lợi nhuận giữ lại so với vốn cổ phần huy động từ bên ngoài.

1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức tại ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán.

Chính sách cổ tức của ngân hàng thương mại ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong năm, số cổ phiếu ưu đãi chiếm trên tổng vốn cổ phần, khả năng tự tài trợ của ngân hàng trong năm tới, hạn mức quỹ tich lũy dành cho quỹ đầu tư và giá thị trường của cổ phiếu ngân hàng đó.

Ngoài ra, để thu hút vốn từ các cổ đông mới ngoài chính sách sách cổ tức, các cổ đông mới còn quan tâm đến các chỉ số trong việc quyết định đầu tư vào ngân hàng cũng như xác định đúng khả năng sinh lời khi các cổ đông đầu tư. Do đó, xác định được giá trị cổ phiếu tại từng thời điểm tốt và một chính sách cổ tức tốt ngân hàng sẽ dễ dàng huy động vốn trên thị trường.

1.5.1. Thị giá.


Thị giá là giá của cổ phiếu trên thị trường tại một thời điểm nhất định được xác lập bởi người mua và người bán. Do đó giá thị trường của ngân hàng thương


mại được xác định bằng giá thị truờng của một cổ phiếu nhân với tổng số cổ phiếu của ngân hàng. Thị giá của cổ phiếu phụ thuộc vào tác động của giá thị trường của ngân hàng, khả năng sinh lời của cổ phiếu đó và các nhân tố kinh tế, chính trị … Giá trị của cổ phiếu có thể cao hoặc thấp hơn giá trị thực của cổ phiếu.

Giá trị thực của cổ phiếu được tính toán trên cơ sở cổ tức của ngân hàng, triển vọng phát triển của ngân hàng và lãi suất thị trường. Và căn cứ vào xác định giá trị thực của cổ phiếu so sánh với giá trị thị trường, các cổ đông mới sẽ quyết định góp vốn vào ngân hàng thông qua việc phát hành thêm cổ phần mới từ ngân hàng thương mại. Việc xác định được giá trị thực chính xác các cổ đông sẽ nhận được cổ tức mình mong đợi và có thể nhận được lợi tức từ việc chênh lệch giá nếu các cổ đông này bán cổ phiếu mình đang nắm giữ đi.

Chỉ số giá – thu nhập (P/E) được xác định

Giá thị trường hiện tại

P/E =

Thu nhập một cổ phiếu phổ thông năm gần

(Nguồn: Tài liệu phân tích chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư)

Chỉ số giá - thu nhập (P/E) là một trong những chỉ số phân tích quan trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu đó, chỉ số này càng cao chứng tỏ ngân hàng kinh doanh có hiệu quả nên thị trường trả giá cao và ngược lại. Nhà đầu tư có thể căn cứ vào chỉ số giá - thu nhập (P/E) được công bố đối với nhóm các loại cổ phiếu cùng ngành, sau đó nhân thu nhập của ngân hàng với chỉ số giá - thu nhập (P/E) sẽ xác định giá của cổ phiếu ngân hàng đó.

Thu nhập cổ tức được xác định như sau:



Thu nhập cổ tức =

Cổ tức trên cổ phần


Giá thị trường hiện tại một cổ phần

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 12/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí