lĩnh vực khác. Tuy nhiên các cổ đông nhận cổ tức bằng tiền mặt sẽ phải nộp thuế thu nhập cổ tức làm cho thu nhập của các cổ đông sẽ giảm đi sau khi nộp thuế.
Việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt cao sẽ kích thích tâm lý các cổ đông, tạo tác động tích cực đồng thời khẳng định ngân hàng đang hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong thời gian tới để tiếp tục duy trì trả mức cổ tức cao. Và một chính sách cổ tức tiền mặt hợp lý từng thời điểm sẽ làm cho thặng dư giá trị của ngân hàng được tăng lên từ tâm lý của các cổ đông.
1.1.2.3. Phương thức cổ tức cổ phiếu tại ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán.
Phương thức trả cổ tức bằng cổ phiếu là hình thức chi trả cổ tức cho các cổ đông bằng cổ phiếu theo một tỷ lệ cổ phiếu đang lưu hành. Trả cổ tức bằng cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng là việc chuyển một phần lợi nhuận chưa phân phối sang thành vốn cổ phần một hình thức nhằm huy động vốn ngắn hạn từ các cổ đông hiện hữu góp thêm vốn vào ngân hàng và giảm tỷ lệ trả cổ tức bằng tiền mặt trong một thời gian ngắn để bổ sung vốn tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh hay để tái đầu tư.
Chia cổ tức bằng cổ phiếu thường tạo ra tâm lý làm giá cổ phiếu của ngân hàng sẽ làm cho cổ phiếu thị trường điều chỉnh tăng trong thời gian ngắn của một số cổ đông làm ảnh hưởng xấu đến các cổ đông khác. Do đó việc chọn phương thức chia cổ tức tùy thuộc vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng để đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông tối ưu nhất nhằm giữ các cổ đông gắng bó ổn định lâu dài với ngân hàng.
Tuy nhiên để thực hiện thành công phương thức trả cổ tức bằng cổ phiếu, ngân hàng thương mại cổ phần cần bộ máy quản trị, có phương án sử dụng vốn thật tốt. Thêm vào đó cổ phiếu của ngân hàng có tính thanh khoản tốt, thủ tục tiến hành nhanh và không bị cản trở về những thủ tục hành chính và luật pháp. Ngoài ra, thông tư 19/2003/TT-BTC ngày 20/03/2003 của Bộ Tài chính quy định các ngân
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách cổ tức tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán - 1
- Chính sách cổ tức tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán - 2
- Tác Động Của Chính Sách Cổ Tức Đến Giá Trị Thị Trường.
- Bài Học Kinh Nghiệm Về Chính Sách Chi Trả Cổ Tức
- Chính sách cổ tức tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán - 6
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
hàng có phương thức trả cổ phiếu nhiều lần trong một năm phải quyết toán thuế hàng năm. Nếu diễn ra hai năm liên tục ngân hàng nên đề nghị quyết toán thuế hai năm một lần để tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng được hoạt động liên tục.
1.1.2.4. Phương thức cổ tức tiền mặt và cổ phiếu tại ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán.
Phương thức cổ tức bằng tiền mặt kết hợp cổ phiếu tại ngân hàng thương mại cổ phần là hình thức vừa chi trả cổ tức tiền mặt cho các cổ đông đồng thời phải trả cổ tức bằng cổ phiếu theo một tỷ lệ nhất định mà các cổ đông đang nắm giữ. Sự kết hợp này vừa làm cho các cổ đông nhận thấy làm tăng giá trị cổ phiếu của các cổ đông khi góp vốn vào ngân hàng đồng thời huy động được nguồn vốn ngắn hạn của các cổ đông trong thời gian ngắn hạn nhằm bổ sung vốn cho ngân hàng để mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh.
Đây là phương thức thanh toán nhằm vừa đáp ứng yêu cầu một số cổ đông muốn nhận tiền mặt đồng thời cũng muốn huy động vốn của các cổ đông nhằm phát triển kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Phương thức này thường được ít các ngân hàng sử dụng do không thể hiện cụ thể và rõ ràng trong chiến lược kinh doanh lâu dài của ngân hàng. Phương thức này chỉ mang tính giải quyết nhất thời giữa ngân hàng với các cổ đông trước áp lực yêu cầu chia cổ tức từ các cổ đông. Và thường phương thức này mang tính thụ động trong kế hoạch phân phối lợi nhuận của các ngân hàng.
1.1.2.5. Phương thức mua lại cổ phần tại ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán.
Một số ngân hàng thương mại có nhiều vốn hơn số vốn cần đầu tư thay vì phải trả cổ tức bằng tiền mặt cho các cổ đông. Những ngân hàng thương mại này có thể mua lại cổ phần đang lưu hành trên thị trường. Và việc chào mua này có thể thực hiện nhiều cách như:
- Một số ngân hàng chào mua trực tiếp từ các cổ đông của mình bằng cách
đưa ra một giá đệm (thường cao hơn giá thị trường).
- Mua lại cổ phần ở thị trường tự do
- Mua lại cổ phiếu theo hình thức đấu giá
- Mua lại từ việc thương lượng riêng với những người nắm giữ số lượng lớn cổ phiếu.
Cổ phần được mua lại gọi là cổ phiếu quỹ. Cổ phiếu quỹ làm cho các hoạt động sát nhập và mua lại ngân hàng được dễ dàng hơn. Do đó đối với các cổ đông việc các ngân hàng thương mại mua lại cổ phần sẽ làm tăng lợi nhuận cho mỗi cổ phần. Và việc lựa chọn phương thức chi trả cổ tức bằng hình thức nào cũng phụ thuộc vào vốn sở hữu hoặc nhu cầu phát triển của các ngân hàng thương mại trong tương lai. Những nhà điều hành luôn quan tâm, đặt ra hàng đầu là quyết định chính sách cổ tức lúc này ra sao và những ảnh hưởng có thể xảy ra khi thực hiện chính sách cổ tức đó làm ảnh hưởng đến giá trị của ngân hàng thương mại như thế nào.
1.2. Các yếu tố quyết định chính sách cổ tức tại ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán.
1.2.1. Khung pháp lý.
Bất kỳ quốc gia nào cũng có luật để chi phối việc chi trả cổ tức đối với những doanh nghiệp đã đăng ký hoạt động kinh doanh tại quốc gia đó. Và luật doanh nghiệp cũng quy định rõ không được dùng vốn của doanh nghiệp để chi trả cổ tức.
Cổ tức phải được chi trả từ lợi nhuận ròng. Hiện nay và trong thời gian qua, điều này bắt buộc các ngân hàng thương mại phải có phát sinh lợi nhuận trước khi chi trả cổ tức nhằm ngăn cản các chủ sở hữu dùng vốn tự có để chia cho các cổ đông và làm suy yếu vị thế an toàn của các chủ nợ.
1.2.2. Thuế suất.
Thuế suất đánh trên thu nhập cổ tức cao sẽ khuyến khích các ngân hàng thương mại sẽ chi trả cho các cổ đông với mức cổ tức thấp nhằm tăng vốn để đầu tư trong tương lai. Do luật tổ chức tín dụng quy định các ngân hàng thương mại phải trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ không quá 5%, quỹ dự phòng tài chính không vượt quá 25% và tối thiểu là 10%, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ không quá 50%, quỹ khen thưởng phúc lợi, và sau đó phân phối lợi nhuận do ban điều hành ngân hàng thương mại quyết định chi trả cổ tức.
1.2.3. Khả năng thanh khoản.
Chi trả cổ tức cho các cổ đông là dòng tiền chi ra của ngân hàng. Do đó, nếu một ngân hàng thương mại có khả năng thanh khoản tốt, ngân hàng thương mại đó sẽ dễ dàng chi trả cổ tức hơn. Và các ngân hàng thương mại nhận thấy rằng khi ngân hàng đang giai đoạn tăng trưởng với nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi sẽ khó để phải vừa duy trì khả năng thanh khoản, vừa phải đáp ứng nhu cầu rút từ các khách hàng tiền gửi và vừa phải chi trả cổ tức cùng lúc.
Khả năng thanh khoản là vấn đề luôn được quan tâm hàng đầu đối với ngân hàng thương mại và trở nên nhạy cảm trong lĩnh vực tín dụng. Bởi vì trong ngân hàng thương mại dòng tiền chi ra có thể biến động bất thường ngay cả khi hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại đó hoạt động có hiệu quả và có lợi nhuận.
1.2.4. Khả năng vay vốn ở thị trường vốn.
Các ngân hàng thương mại thường cần huy động thêm vốn để đầu tư vào những hoạt động kinh doanh có khả năng sinh lợi cao. Và với một ngân hàng thương mại nếu không tiếp cận được nguồn vốn từ thị trường bên ngoài, nguồn tài trợ duy nhất mà các ngân hàng nghĩ đến là dùng lợi nhuận giữ lại, điều này làm cho các cổ đông sẽ không được nhận hoặc nhận rất ít khi chi trả cổ tức. Đối với những
ngân hàng thương mại lớn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả việc tiếp cận các nguồn vốn như vay vốn liên ngân hàng, hay phát hành trái phiếu ra công chúng sẽ làm cho việc chi trả cổ tức được duy trì ổn định hơn.
1.2.5. Triển vọng tăng trưởng.
Các ngân hàng thương mại có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng thường có nhu cầu vốn lớn để tài trợ cho các dự án đầu tư có khả năng sinh lợi cao của mình. Do đó, những ngân hàng này sẽ cố gắng phát hành thêm cổ phần mới và giảm tỷ lệ chi trả cổ tức nhằm bảo đảm đủ tiền cho dự án đầu tư. Tuy nhiên các ngân hàng thương mại sẽ ưu tiên giảm tỷ lệ chi trả cổ tức cho các cổ đông trước, còn việc huy động thêm một số cổ đông mới sẽ được thực hiện rất hạn chế vì điều này làm phát sinh thêm những thủ tục pháp lý và chi phí liên quan khi phát hành cổ phiếu mới ra công chúng.
Vì vậy những ngân hàng thương mại có tỷ lệ chi trả cổ tức thấp thường có tỷ lệ tăng trưởng cao. Nếu ngân hàng giữ lại lợi nhuận và đầu tư có hiệu quả sẽ làm cho tỷ lệ chi trả cổ tức trong tương lai của các cổ đông nhiều lần.
1.2.6. Lạm phát.
Bất kỳ một quốc gia nào, nền kinh tế nào cũng có lạm phát và làm cho giá trị hàng hóa ngày một gia tăng đáng kể. Trong lĩnh vực ngân hàng, các thiết bị tin học và phần mềm tin học sử dụng trong ngân hàng luôn được nâng cấp liên tục nhằm bảo mật số liệu cũng như đáp ứng được sự phát triển mạng lưới hoạt động của ngân hàng và tốc độ thay đổi của công nghệ thông tin. Do đó, việc trích khấu hao tài sản của những thiết bị và phần mềm tin học đã không kịp để thay thế một tài sản là những thiết bị và phần mềm tin học khác của ngân hàng khi những thiết bị và phần mềm tin học này không đáp ứng được nhu cầu hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó, ngân hàng thường giữ lại một tỷ lệ lợi nhuận cao hơn nhằm đầu tư vào những trang thiết bị tốt hơn, bảo đảm an toàn trong tín dụng, bảo đảm hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
1.2.7. Tâm lý cổ đông.
Trong ngân hàng thương mại có rất nhiều cổ đông sở hữu ngân hàng, để có thể thống nhất được những ý kiến của các cổ đông ban điều hành sẽ tổ chức đại hội cổ đông để lấy ý kiến trong việc quyết định chính sách cổ tức. Với một sự tăng trưởng liên tục và thuế đánh cao từ thu nhập cổ tức những cổ đông lớn thường có tâm lý muốn giữ lại lợi nhuận để nhận giá trị cổ phần gia tăng hơn là nhận cổ tức cao.
Tuy nhiên để thống nhất được ý kiến của tấc cả các cổ đông, những cổ đông lớn thường có những thông điệp hàm chứa thông tin và sự ủy quyền từ các cổ đông nhỏ lẻ. Đồng thời tạo một hiệu ứng tâm lý cổ đông trước đại hội nhằm đưa ra những áp lực đối với ban điều hành trong việc chi trả cổ tứ. Do đó ban điều hành phải cân nhắc thật kỹ trước khi lựa chọn một chính sách cổ tức phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng và bảo đảm quyền lợi của các cổ đông.
1.2.8. Bảo vệ chống lại loãng giá.
Những ngân hàng thương mại chấp nhận một chính sách chi trả cổ tức một tỷ lệ lớn từ lợi nhuận, khi phát sinh những dự án có tiềm năng có khả năng sinh lợi cao sẽ làm cho ngân hàng phải huy động thêm nguồn vốn bằng cách phát hành thêm cổ phần mới. Nếu các cổ đông hiện hữu không mua hay không thể mua một tỷ lệ cân xứng cổ phần mới phát hành, quyền lợi của các cổ đông hiện hữu trong ngân hàng sẽ bị giảm xuống theo phần trăm tức là bị pha loãng.
Do đó, khi có những dự án có khả năng sinh lợi cao các ngân hàng thương mại thường sẽ giữ lại lợi nhuận và chi trả cổ tức thấp hơn để tránh rủi ro loãng giá nhằm bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu. Tuy nhiên một số ngân hàng thương mại sẽ không chọn hình thức phát hành cổ phần mới mà chọn hình thức nợ thông qua phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Nhưng việc chọn hình thức phát hành trái phiếu sẽ tăng rủi ro về tài chính, tăng chi phí sử dụng vốn và có thể làm giảm giá cổ phiếu trong một thời điểm nhất định. Ngoài ra nếu ngân
hàng thương mại đã có một cấu trúc vốn tối ưu, việc phát hành trái phiếu rất có thể sẽ làm phản tác dụng làm cho giá trị của ngân hàng bị giảm xuống, trừ khi ngân hàng thương mại giữ lại hay mua lại cổ phần mới trong thị trường vốn nhằm cân đối lại cấu trúc vốn.
Khi nghiên cứu kỹ các yếu tố trên sẽ giúp cho ban điều hành có một chính sách cổ tức hợp lý phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh nhằm bảo đảm quyền lợi của các cổ đông và nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
1.3. Các chính sách cổ tức khác tại ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán.
1.3.1. Chính sách lợi nhuận thụ động.
Chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động là chính sách mà các ngân hàng giữ lại cổ tức và không phân chia cho các cổ đông và chờ một kế hoạch đầu tư cụ thể để làm tăng giá trị thặng dư trong tương lai với tỷ suất sinh lợi đầu tư cao hơn tỷ suất sinh lợi mong đợi mà các cổ đông đòi hỏi. Với chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động này các ngân hàng không nên chi trả cổ tức do việc chi trả cổ tức sẽ làm cho các ngân hàng phải lựa chọn một là chấp nhận hi sinh các cơ hội đầu tư hoặc là huy động thêm vốn cổ phần từ các thị trường vốn bên ngoài với chi phí tốn kém hơn so với việc giữ lại lợi nhuận để đầu tư.
Do đó chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động được hiểu rằng việc chi trả cổ tức thay đổi từng năm tùy thuộc vào các cơ hội đầu tư sẵn có của các ngân hàng. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng hầu hết các ngân hàng thương mại đều cố gắng duy trì một mức chi trả cổ tức tương đối ổn định theo thời gian. Và điều này không đồng nghĩa rằng các ngân hàng thương mại sẽ bỏ qua những nguyên lý cơ bản về chính sách cổ tức thụ động trong việc quyết định phân phối cổ tức, bởi vì có thể duy trì cổ tức theo hai cách. Một là các ngân hàng thương mại có thể giữ lại lợi nhuận với tỷ lệ khá cao trong những năm có nhu cầu sử dụng vốn cao. Và nếu ngân hàng thương mại tiếp tục tăng trưởng, các nhà điều hành có thể thực hiện chiến lược này mà
không cần phải giảm cổ tức của các cổ đông. Hai là các ngân hàng thương mại có thể vay vốn cho nhu cầu vốn cần sử dụng làm tăng tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần một cách tạm thời tránh trường hợp phải giảm cổ tức cho các cổ đông. Do chi phí sử dụng vốn vay ngắn hạn thường thấp hơn chi phí sử dụng vốn vay dài hạn nên các ngân hàng thương mại nhận thấy có cơ hội đầu tư tốt trong suốt một năm nào đó, chính sách vay nợ lúc này sẽ thích hợp hơn việc cắt giảm cố tức. Đồng thời các ngân hàng thương mại cũng cần phải giữ lại lợi nhuận trong những năm sắp đến để đưa tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần trở về lại mức thích hợp. Làm cho các ngân hàng thương mại có cơ hội đầu tư tăng trưởng trong nhiều năm nhằm đáp ứng các nhu cầu tài trợ và duy trì cấu trúc vốn tối ưu nhất.
1.3.2. Chính sách cổ tức ổn định.
Chính sách cổ tức ổn định là chính sách cổ tức duy trì việc trả cổ tức cho các cổ đông theo một tỷ lệ nhất định và duy trì việc chi trả cổ tức này trong một thời gian dài và không thay đổi. Chính sách cổ tức ổn định thường được chia bằng tiền mặt theo tỷ lệ trên cổ phiếu mà các cổ đông đang nắm giữ. Nhiều bằng chứng cho thấy rằng hầu hết các ngân hàng thương mại và các cổ đông đều thích một chính sách cổ tức ổn định. Do việc thay đổi cổ tức có nội dung hàm chứa thông tin và các thay đổi trong mức cổ tức của một ngân hàng ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng đó. Một cắt giảm cổ tức có thể được hiểu rằng tiềm năng lợi nhuận của ngân hàng thương mại đó sẽ sụt giảm trong tương lai. Và ngược lại nếu gia tăng cổ tức có nghĩa rằng trong tương lai cổ tức sự kiến sẽ gia tăng.
Việc duy trì một tỷ lệ chi trả cổ tức cố định sẽ có tác dụng tốt đối với tâm lý các cổ đông, nhất là những người xem việc mua cổ phiếu như là một hình thức gửi tiết kiệm hay tìm kiếm một dòng tiền thu nhập ổn định. Mặt khác, một sự sụt giảm trong tỷ lệ chi trả cổ tức nếu không công bố, giải thích rõ ràng sẽ bị coi như một dấu hiệu của sự sụt giảm lợi nhuận. Do đó việc các ngân hàng thương mại công bố một chính sách chi trả cổ tức ổn định trong một thời gian dài thường được các cổ đông