Khái Quát Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Việt Nam Qua Các Thời Kỳ Lịch Sử

sản mà vợ, chồng có được đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Chế độ cộng đồng toàn sản không thừa nhận quyền sở hữu riêng của vợ, chồng mà chỉ thừa nhận quyền sở hữu chung, theo đó toàn bộ tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung. Quy định đó xuất phát từ quan niệm nhu cầu chung, lợi ích chung của gia đình là tối cao, tài sản của vợ chồng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ là vì mục đích đó, nên tất cả tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân phải thuộc khối tài sản chung, quyền có tài sản riêng không được thừa nhận vì mâu thuẫn với lợi ích của gia đình. Chế độ tài sản này chỉ phù hợp với quan hệ HN&GĐ trong xã hội truyền thống. Trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, khi quyền tự do cá nhân luôn được đề cao, chế độ cộng đồng toàn sản đã bộc lộ những hạn chế cơ bản, vì không đảm bảo quyền tự định đoạt của người có tài sản, đặc biệt khi tài sản đó do vợ, chồng làm ra trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng; nó cũng không đảm bảo được sự độc lập của vợ, chồng do họ không có tài sản riêng để tham gia các quan hệ xã hội khác ngoài quan hệ gia đình; mặt khác, việc chế độ cộng đồng toàn sản được áp dụng trong giai đoạn hiện nay có thể khuyến khích cho các quan hệ hôn nhân thực dụng, dễ nảy sinh các quan hệ hôn nhân được xác lập không phải vì tình cảm yêu thương, gắn bó với mục đích xác lập quan hệ vợ chồng chung sống lâu dài, hạnh phúc, mà chỉ nhằm vào tiền bạc, tài sản. Vì vậy, các nước thường không lựa chọn chế độ tài sản cộng đồng này.

- Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản: Chế độ tài sản này đã thừa nhận trong hôn nhân bao gồm có tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản xác định tài sản của vợ chồng dựa trên việc phân định tài sản của vợ, chồng là động sản hay bất động sản. Theo đó, khối tài sản chung chỉ bao gồm các động sản của vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân, các hoa lợi và các bất động sản mà vợ, chồng mua lại bằng

tài sản chung. Vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với bất động sản có trước khi kết hôn và bất động sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.

Việc quy định chế độ cộng đồng động sản và tạo sản là xuất phát từ quan điểm của nhà làm luật một số nước cho rằng: Vợ, chồng phải để dành cho mình làm của riêng những tài sản chính của mình và theo các nhà làm luật đó là bất động sản [31]. BLDS năm 1804 của Cộng hoà Pháp đã quy định dành cho mỗi bên vợ, chồng giữ làm của riêng các bất động sản hiện có khi lập hôn thú và tất cả các bất động sản mà người vợ, người chồng có được do được tặng cho riêng, được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân. Bởi những bất động sản này thường do cha mẹ, ông bà hoặc các thành viên khác trong gia đình của người vợ, người chồng truyền lại nên cần phải để làm của riêng.

Ở nước ta dưới chế độ nguỵ quyền Sài Gòn, Sắc Luật 15/64 ngày 23/7/1964 áp dụng ở miền Nam trước ngày giải phóng cũng đã dự liệu chế độ cộng đồng động sản và tạo sản là chế độ tài sản pháp định giành cho các cặp vợ chồng không lập hôn ước. Những quy định của chế độ tài sản theo Sắc Luật 15/64 đã được ghi nhận lại trong BLDS năm 1972 dưới chế độ nguỵ quyền Sài Gòn (các Điều 150, 151, 152,…). Điều 152 BLDS Sài Gòn năm 1972 quy định: “Bất động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi vợ chồng ngày lập hôn thú hoặc thủ đắc trong thời gian hôn thú do sự thừa kế, tặng dữ và di tặng là của riêng của mỗi người” [62]. Chế độ tài sản cộng đồng này chỉ phù hợp với giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội lấy bất động sản là tiêu chí xác định thành phần chính yếu và chắc chắn của tài sản trong gia đình.

Với điều kiện phát triển kinh tế hiện nay, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng dựa trên sự phân tách động sản và bất động sản đã mất đi sự công bằng trong gia đình và đã không đảm bảo được mục đích đề ra ban đầu của nhà làm luật, vì lúc này tài sản chính yếu không chỉ là bất động

sản mà còn gồm những tài sản thuộc về động sản, quyền tài sản hoặc các giấy tờ trị giá được bằng tiền. Do vậy, hiện nay nhiều nước không ghi nhận chế độ tài sản này.

- Chế độ cộng đồng tạo sản: Theo quy định của chế độ tài sản này, thành phần, phạm vi các loại tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng được thu hẹp hơn nữa so với chế độ cộng đồng động sản và tạo sản. Chế độ cộng đồng tạo sản có đặc điểm, tài sản chung của vợ chồng chỉ được xác định đối với những tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản khác không phân biệt động sản hay bất động sản mà vợ, chồng có được trước khi kết hôn, hay được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng.

Chế độ cộng đồng tạo sản được hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia lựa chọn quy định trong pháp luật, như Pháp, Trung Quốc, Việt Nam,…. Điều 13 Luật hôn nhân năm 1980 của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quy định: “Tài sản của vợ chồng làm ra trong suốt thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, ngoài ra, mỗi bên có thể có tài sản riêng ngoài quy định trên” [31]. BLDS Cộng hoà Pháp cũng quy định: “Tài sản cộng đồng gồm những thu nhập chung của hai vợ chồng hoặc thu nhập riêng của từng người trong thời kỳ hôn nhân và có nguồn gốc từ công việc làm ăn của họ, cũng như từ những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng của họ” [45, Điều 1401]. Ở Việt Nam, Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 14, 15, 16) và Luật HN&GĐ năm 2000 (Điều 27, 28, 32, 33) cũng lựa chọn chế độ cộng đồng tạo sản để áp dụng cho các cặp vợ chồng từ khi xác lập quan hệ hôn nhân.

Việc chế độ cộng đồng tạo sản được thừa nhận rộng rãi ở các nước là do chế độ tài sản cộng đồng này rất phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi nước. Một mặt, nó không làm phá vỡ chế độ tài sản chung của vợ chồng, mặt khác

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.

chế độ tài sản này còn tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng có thể chủ động trong việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, ngăn chặn các trường hợp kết hôn với mục đích không lành mạnh, việc kết hôn chỉ nhằm vào khối tài sản đã sẵn có của bên kia.

* Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn phân sản:

Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam - 4

Chế độ phân sản là một hình thức của chế độ tài sản pháp định, trong đó giữa vợ chồng không tồn tại khối tài sản chung, tất cả các loại tài sản mà mỗi bên vợ, chồng đã có từ trước khi kết hôn hoặc tạo ra được trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Pháp luật chỉ quy định nghĩa vụ của vợ, chồng về đóng góp vào chi tiêu chung của gia đình.

Trong chế độ phân sản còn có chế độ hồi môn. Chế độ tài sản này có nguồn gốc từ pháp luật La Mã cổ đại. Theo đó, những tài sản thuộc của hồi môn của người vợ sẽ giao cho người chồng để người chồng quản lý và sử dụng. Như vậy, hoa lợi từ tài sản riêng của người chồng và từ của hồi môn của người vợ thuộc về người chồng. Đặc điểm của chế độ hồi môn là tài sản hồi môn không thể được chuyển nhượng, người chồng không có quyền bán tài sản hồi môn vì người chồng không phải là chủ sở hữu, người vợ cũng không có quyền chấp thuận để người chồng bán. Cho dù có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng, tài sản hồi môn cũng không thể bán được [31].

Trước đây, chế độ tài sản này đã từng được áp dụng ở Italia và ở Anh từ năm 1857. Khi một đôi vợ chồng tạo lập một tài sản thành của hồi môn, họ phải ký một hôn ước theo chế độ của hồi môn. Vì vậy, tại những nước này, chế độ tài sản áp dụng cho những đôi vợ chồng không lập hôn ước là chế độ phân sản [24]. Hiện nay, chế độ phân sản không được pháp luật của nhiều nước áp dụng, vì nó đề cao lợi ích cá nhân của vợ, chồng mà xem nhẹ lợi ích gia đình.

1.3. KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ

1.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến

Xã hội phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của nho giáo, trong đó có các quan niệm về hôn nhân và gia đình. Các quy định về HN&GĐ chiếm một vị trí quan trọng trong các văn bản luật, tiêu biểu nhất là hai bộ luật: Quốc triều hình luật (còn gọi là Bộ luật Hồng Đức - thời Lê) và Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long - thời Nguyễn). Theo các nhà nghiên cứu, chế độ tài sản của vợ chồng không được quy định như một chế định riêng rẽ và cụ thể. Trong Quốc triều hình luật (QTHL) đã thiết lập một chế độ tài sản tương đối bình đẳng giữa vợ và chồng, quyền bình đẳng về tài sản thể hiện qua các quyền sở hữu tài sản của vợ và chồng đối với tài sản chung và tài sản riêng.

Nguồn tài sản gồm có:

- Tài sản của chồng được thừa kế từ gia đình chồng (phu điền sản);

- Tài sản của vợ được thừa kế từ gia đình vợ (thê điền sản);

- Tài sản chung do hai vợ chồng cùng kiếm được sau khi lấy nhau (tần tảo điền sản).

Toàn bộ tài sản trong gia đình được hợp thành một khối. Mặc dù Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long không trực tiếp đề cập đến việc quản lý tài sản trong gia đình, nhưng quy định tại các Điều 374, 375, 376 của Bộ luật nhà Lê đã gián tiếp thừa nhận năng lực bình đẳng của vợ chồng trong việc quản lý tài sản của gia đình. Các văn cổ lập dưới thời Lê cho thấy các định đoạt quan trọng đối với tài sản như bán, tặng cho, cầm cố, lập chúc thư, … do hai vợ chồng cùng thực hiện, các văn tự đều do hai vợ chồng cùng ký [40].

Với tư cách là người chủ gia đình, người chồng có quyền quản lý và sử dụng tài sản của gia đình nhưng phải xuất phát vì lợi ích của gia đình, nếu làm tổn hại đến tài sản của gia đình thì người vợ có quyền phản đối.

Trong Bộ luật cũng thừa nhận vợ chồng đều có quyền sở hữu tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ chồng là tài sản có trước khi kết hôn, được thừa kế từ gia đình mỗi người. Đối với tài sản này vợ, chồng đều có quyền sở hữu riêng, mặc dù tài sản này được quản lý chung bởi vợ chồng và các lợi tức từ tài sản đó mang lại là tài sản chung, nhưng tài sản này chỉ tạm thời gộp lại để vợ chồng quản lý trong thời gian hôn nhân. Như vậy, có thể hiểu tài sản riêng của vợ và chồng thì cả hai đều có quyền chiếm hữu, sử dụng trong thời gian hôn nhân nhưng không có quyền định đoạt đối với tài sản riêng của người khác. Do đó, khi họ ly hôn thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về người đó và họ có quyền mang theo trừ trường hợp ly hôn do vợ gian dâm. Việc thừa nhận vợ có quyền sở hữu tài sản riêng là điểm đặc sắc của pháp luật phong kiến nhà Lê và tạo cho người vợ có vị thế ngang bằng nhất định với người chồng.

Tuy nhiên, sự bất bình đẳng trong quan hệ tài sản của vợ chồng theo quy định của Bộ luật Hồng Đức thể hiện ở chỗ trong trường hợp người chồng chết trước, nếu người vợ lấy chồng khác thì người vợ mất quyền hưởng hoa lợi từ tài sản của người chồng đã chết; nhưng ngược lại, nếu người vợ chết trước thì mặc dù người chồng lấy vợ khác, nhưng vẫn được hưởng hoa lợi từ tài sản của người vợ đã chết.

Đến thế kỷ XIX, Bộ luật Gia Long cho phép người chồng có toàn quyền chuyển nhượng tài sản của gia đình, vấn đề tài sản giữa vợ và chồng hầu như không được Luật Gia Long đề cập tới, người vợ phải phụ thuộc người chồng một cách tuyệt đối. Quy định này xuất phát từ chỗ Bộ luật Gia Long đã sao chép máy móc các quy định của Nhà Thanh và đã làm hạn chế quyền tài sản của người vợ so với các quy định tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức.

Qua nghiên cứu các quy định liên quan đến vấn đề tài sản của vợ chồng trong QTHL và HVLL có thể thấy rằng, chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng trong thời kỳ phong kiến là chế độ cộng đồng toàn sản, với nội dung

toàn bộ tài sản mà vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn hoặc do vợ chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng, khối tài sản chung này được sử dụng vào mục đích là nuôi dưỡng, giáo dục các con, để lại cho các con khi cha, mẹ chết. Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các tài sản là động sản (QTHL gọi là phù vật) và các bất động sản (điền sản). Trong đó điền sản được coi là tài sản chủ yếu, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong khối tài sản chung của vợ chồng. Nó có ý nghĩa thiêng liêng và thể hiện trật tự giữa các thành viên trong gia đình.

1.3.2. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc

Trong thời kỳ Pháp thuộc, thực dân Pháp ban hành ở nước ta ba Bộ luật dân sự áp dụng cho ba miền:

- Ở Bắc Kỳ áp dụng BLDS năm 1931 (DLBK);

- Ở Trung Kỳ áp dụng BLDS năm 1936 (DLTK);

- Ở Nam Kỳ cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (DLGYNK). Trong cả ba Bộ dân luật nói trên đều có phần quy định về HN&GĐ,

trong đó có chế độ tài sản vợ chồng.

Bộ dân luật giản yếu Nam Kỳ có 5 tiết nói về hôn thú, ly dị, phụ hệ, nuôi con nuôi và phụ quyền; không có quy định về hôn sản, di sản và tư sản. Thời kỳ đầu các án lệ của Nam Kỳ có công nhận người vợ có của riêng và chế độ hôn nhân theo tục lệ là cộng đồng tạo sản. Nhưng sau đó các án lệ lại đổi hướng không công nhận quyền có tài sản riêng của người vợ, với lập luận rằng nếu công nhận chế độ cộng đồng tài sản tức là đã gán cho người vợ những quyền ngang hàng với quyền của người chồng, trong khi đó trong gia đình, người vợ chỉ có địa vị của một người con gái.

Chế độ hôn sản được áp dụng tại Nam Kỳ theo các nguyên tắc:

Người vợ không có của riêng, do đó không thể có cộng đồng tài sản giữa vợ và chồng. Toàn thể tài sản trong gia đình đều thuộc quyền sở hữu và

quyền quản lý của người chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như sau khi người vợ chết. Trong trường hợp vợ chết thì chồng là chủ sở hữu đối với toàn bộ tài sản của gia đình do hiệu lực của hôn nhân chứ không phải là hưởng gia tài của người vợ; nhưng nếu người chồng chết thì người vợ chỉ có quyền hưởng dụng thu lợi trên toàn bộ tài sản gia đình trong khi còn ở goá.

Theo đó, các án lệ tại các Toà án ở Nam Kỳ đã áp dụng nguyên tắc chồng là chủ sở hữu duy nhất các tài sản của gia đình, bao gồm:

+ Các động sản đã mua trong thời kỳ hôn nhân, kể cả các động sản khi mua đã đứng tên vợ;

+ Các bất động sản đã ban cấp riêng cho người vợ;

+ Các bất động sản có được trong thời kỳ hôn nhân, mặc dù các bất động sản đó đứng tên người vợ khi mua …

Như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng trong thời Pháp thuộc ở Nam Kỳ là rất bất công đối với người vợ, nhất là khi tài sản mà vợ tạo ra được do hành nghề riêng trong thời kỳ hôn nhân vẫn phải coi là thuộc tài sản của người chồng.

Tuy nhiên, án lệ cũng công nhận trong một số trường hợp thì những tài sản sau đây được coi là tài sản riêng của vợ:

+ Các đồ tư trang của người vợ;

+ Tài sản người vợ có được do được gia đình vợ tặng cho hoặc được hưởng di sản của gia đình vợ;

+ Bất động sản đã ghi rõ tên vợ là chủ sở hữu trong sổ địa bộ.

Do các án lệ đã công nhận chồng là chủ sở hữu đối với tài sản của gia đình nên trong việc quản lý tài sản, người chồng có thể một mình đứng ra thực hiện các giao dịch và thu nhận hoa lợi; nếu con nợ vay tiền của vợ thì có thể trả nợ đó cho người chồng. Ngược lại, người vợ không được ký kết các hợp đồng một mình và người chồng có quyền khiếu nại để phủ nhận hợp

Xem tất cả 130 trang.

Ngày đăng: 18/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí