Sau khi Luật HN&GĐ năm 2014 được thông qua, bên cạnh chế độ hôn sản luật định truyền thống còn ghi nhận thêm chế độ hôn sản theo thỏa thuận. Mặc dù là một nội dung mới trong quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam, nhưng chế độ hôn sản theo thỏa thuận lại không phải là vấn đề xa lạ trong tư duy của những nhà người nghiên cứu pháp luật. Đây là đề tài luôn được nhiều người quan tâm và đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến chế độ này như: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam (Nguyễn Thị Kim Dung, Luận văn thạc sỹ năm 2014); Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 (Nguyễn Thị Thu Thủy, Luận văn thạc sỹ năm 2015); Xác định tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam nă m 2014 (Phạm Thị Anh, Luận văn thạc sỹ năm 2015)…
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy định của luật thực định về chế độ tài sản của vợ chồng, tìm hiểu thực tiễn áp dụng luật thực định để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó, tìm hiều những bất cập, chưa cụ thể, trên cơ sở đó có những nhận xét, kiến nghị, hướng hoan thiện pháp luật dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014, với mục đích trên, luận văn được thực hiện với các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng. Với nhiệm vụ này, luận văn xây dựng một số khái niệm khoa học trong nội hàm chế độ tài sản của vợ chồng; các đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của chế độ tài sản vợ chồng đối với sự tồn tại và phát triển của gia đình và xã hội; tìm hiểu một cách có hệ thống và đầy đủ về chế độ tài sản của vợ chông trong pháp luật Việt Nam và pháp luật HN&GĐ của một số nước trên thế giới. Từ đó, khẳng định tính tất yếu và cần thiết của chế độ hôn sản được quy định trong pháp luật;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng. Với nhiệm vụ này, luận văn đi sâu phân tích nội dung các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014 và những ngành luật có liên quan (Luật Dân dự, Luật Đất đai…); tìm hiểm mục đích, cơ sở của việc quy định các điều luật điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng; phân tích tính kế thừa và phát triển, cũng như những điểm mới quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014 để có cách hiểu đúng nhất, phù hợp với khoa học pháp lý về chế độ hôn sản của
vợ chồng và thực tiễn đời sống trong lĩnh vực HN&GĐ. Đồng thời qua việc phân tích nội dung chế độ hôn sản trong luật thực định, luận văn cũng đưa ra những điểm bất cập, chưa hợp lý, thiếu tính khoa học của các quy định đó, để làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện chế độ hôn sản theo Luật HN&GĐ năm 2014.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ hôn sản quan hoạt động xét xử của ngành Tòa án giải quyết các tranh chấp từ quan hệ HN&GĐ liên quan trực tiếp đến vấn đề hôn sản. Qua đó, đánh giá về những thành công và hạn chế của việc áp dụng pháp luật về chế độ hôn sản.
- Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng chế độ hôn sản theo luật thực định, luận văn nêu một số kiến nghị đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung các quy định trong Luật HN&GĐ năm 2014 nhằm hoàn thiện chế độ hôn sản.
Từ những nhiệm vụ trên đây, luận văn được nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi luật thực định về chế độ hôn sản.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 1697215839 - 1
- Chế Độ Hôn Sản Theo Thỏa Thuận (Chế Độ Hôn Sản Ước Định)
- Khái Quát Chế Độ Hôn Sản Trong Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam Qua Các Thời Kỳ
- Chế Độ Hôn Sản Trong Pháp Luật Ở Miền Nam Giai Đoạn 1954 Đến 1975
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác- Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về HN&GĐ. Luận văn được thực hiện thông qua các phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu chế đọ tài sản của vợ chồng qua các thời kỳ ở Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề liên quan đến chế độ hôn sản và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu;
- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam cũng như pháp luật của một số nước khác quy định về chế độ hôn sản. Qua đó, phân tích nét tương đồng và đặc thù của pháp luật Việt Nam quy định về chế độ hôn sản, phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và tập quán của gia đình truyền thống Việt Nam;
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn hoạt động xét xử của ngành Tòa án, với các số liệu cụ thể giải quyết các tranh chấp từ quan hệ HN&GĐ liên quan đến tài sản của vợ chồng. Tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chưa? Các nguyên nhân? Từ đó xem xét
nội dung quy định của pháp luật về chế độ hôn sản với thực tiễn của đời sống nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
5. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về chế độ hôn sản theo pháp luật Việt Nam. Ngoài những điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về chế độ hôn sản, với đề tài này, luận văn được trình bày với những điểm mới sau đây:
- Xây dựng và phân tích khải niệm chế độ hôn sản. Từ trước đến nay trong khoa học pháp lý nói chung và Luật HN&GĐ nói riêng ở nước ta chưa có một khái niệm thống nhất về chế độ hôn sản;
- Phân tích sự cần thiết pháp luật phải quy định chế độ hôn sản. Các đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của chế độ hôn sản đối với sự ổn định, phát triển của gia đình và xã hội.
- So sánh chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước khác để thấy rõ nét tương đồng và đặc thù, mang bản sắc dân tọc của pháp luật Việt Nam điều chỉnh chế độ hôn sản.
- Khi phân tích nội dung chế độ hôn sản theo luật thực định, luận văn chỉ rõ các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng; đặc biệt, phải xác định thời kỳ hôn nhân là căn cứ chung để xác lập tài sản chung của vợ chồng trong các trường hợp cụ thể.
- Các loại nghĩa vụ chung và nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng được hiểu và áp dụng như thế nào? Bao gồm cụ thể các loại nghĩa vụ nào?
- Những đặc điểm khác biệt về tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng đối với sở hữu chung theo phần.
- Luận giải tại sao Luật HN&GĐ của nhà nước ta (từ năm 1945 đến nay) không quy định về chế độ tài sản ước định (dựa theo sự thỏa thuận của vợ chồng).
- Phân tích chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng về điều kiện xác lập, nội dung thỏa thuận, thỏa thuận về chế định hôn sản vô hiệu, sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
- Qua việc phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ hôn sản, luận văn chỉ rõ những vấn đề bất cập, không hợp lý, chưa bảo đảm được tính khoa học về
những quy định của luật thực định khi điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng; từ đó nêu các kiến nghị hoàn thiện các quy định về chế độ hôn sản theo pháp luật hiện hành.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Hoàn thành luận văn này, tôi hi vọng rằng những kiến thức khoa học trong luận văn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta; đặc biệt là đối chuyên ngành Luật HN&GĐ.
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi các nhân, đặc biệt là các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng; biết được cơ sở pháp lý tạo lập các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ cụ thể của vợ, chồng đối với những loại tài sản này; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản vợ chồng… Từ đó, góp phần thực hiện pháp luật, xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hành phúc, bền vững.
Những kiến nghị khoa học trong luận văn được sử dụng trong việc pháp điển hóa Luật HN&GĐ của Nhà nước ta; bởi lẽ việc sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật HN&GĐ (trong đó có chế độ hôn sản của vợ chồng) là rất cần thiết, tạo cơ sở pháp lý vững chắc và thống nhất trong quá trình thực hiện, áp dụng chế độ hôn sản theo Luật HN&GĐ Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế độ hôn sản
Chương 2: Nội dung chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng của chế độ hôn sản
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ HÔN SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế độ hôn sản
1.1.1 Khái niệm chế độ hôn sản
Gia đình là tế bào của xã hội, thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Trong xã hội có giai cấp Nhà nước luôn bằng pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, xây dựng mô hình (kiểu gia đình phù hợp) với thiết chế xã hội. Gia đình có vị trí, vai trò đặc biết quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong gia đình, vợ, chồng, cha mẹ, con vừa là thành viên trong gia đình, vừa là thành viên của xã hội. Để cho gia đình tồn tại và phát triển, cần phải có các điều kiện cơ sở vật chất- cơ sở kinh tế của gia đình, nuôi sống gia đình. Do vậy, chế độ hôn sản của vợ chồng luôn được nhà làm luật quan tâm xây dựng như là một trong các chế định cơ bản, quan trọng nhất của pháp luật về HN&GĐ.
Vợ, chồng trước hết với tư cách là công dân có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Tài sản của vợ chồng thuộc phạm trù tài sản riêng của công dân đã được Hiến Pháp (Điều 58 Hiến pháp năm 1992 và Điều 32 Hiến pháp năm 2013) và BLDS năm 2015 ghi nhận. Về khái niệm tài sản, theo Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”. So với BLDS năm 2005, khái niệm về tài sản trong BLDS 2015 đã mở rộng hơn về những đối tượng được coi là tài sản. Xét về lý thuyết có thể áp dụng các quy định chi phối tài sản của vợ chồng như những người khác không phải là vợ chồng, như: tài sản của bên nào bên đó có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Những thu nhập hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng… Tuy nhiên, lý thuyết này không thể áp dụng cho hai vợ chồng trong thực tiễn. Do quan hệ hôn nhân có tính chất cộng đồng, sau khi kết hôn, hai vợ chồng cùng ăn chung, ở chung, cùng chung sức, chung ý chí trong việc tạo dựng tài sản, xây dựng gia đình hạnh phúc, ổn định vì lợi ích chung của gia đình, các thành viên trong gia đình và sự phồn vinh của xã hội. Do vậy, nhà nước bằng pháp luật phải quy định về chế độ hôn sản.
Sở dĩ, pháp luật phải dự liệu về chế độ hôn sản bởi các lý do sau:
Thứ nhất, hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tình yêu, tình thương của hai bên vợ, chồng. Mục đích của quan hệ hôn nhân nhằm xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc để thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội, chắc năng duy trì nòi giống cũng như
dưỡng dục con cái, ông bà, cha mẹ. Khi nam, nữ trở thành vợ chồng đồng nghĩa với việc họ sẽ cùng nhau gánh vác những nghĩa vụ chung như các nghĩa vụ về kinh tế, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng …Vợ chồng cùng chung sức, chung ý chí trong việc tạo lập tài sản nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của gia đình; để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau; cùng nhau nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái … thì cần phải có tài sản, của cải. Gia đình không phải là một đơn vị sản xuất, tiêu dùng khép kín, độc lập mà luôn có những mối quan hệ giao lưu bên ngoài xã hội. Để đáp ứng nhu cầu thiết yếu và thực hiện các nghĩa vụ khác của gia đình, trong suốt thời kỳ hôn nhân vợ chồng luôn thực hiện những quan hệ trao đổi, giao dịch với những người khác. Pháp luật cần quy định rõ những trường hợp nào việc sử dụng tài sản của vợ chồng cần phải có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng; trường hợp nào được coi là thỏa thuận mặc nhiên của vợ, chồng khi một bên trực tiếp sử dụng, định đoạt tài sản của vợ chồng. Bên cạnh đó, trong suốt thời kỳ hôn nhân có thể phát sinh các quyền lợi và nghĩa vụ của vợ chồng, đặc biệt là các quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến người thứ ba. Nhờ có các quy định về chế độ hôn sản vợ, chồng và người thứ ba có thể thực hiện giao dịch bảo đảm lợi ích chung của gia đình và quyền lợi chính đáng của mỗi bên.
Thứ hai, việc dự liệu chế độ hôn sản trong các quy định của pháp luật là cơ sở để vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình liên quan đến tài sản của vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân; như việc luật quy định căn cứ, nguồn gốc, phạm vi các loại tài sản thuộc tài sản chung hoặc tài sản riêng của vợ, chồng. Theo đó, vợ, chồng thực hiện quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) đối với từng loại tài sản luật định nhằm đảm bảo lợi ích chung của gia đình hoặc nhu cầu của bản thân vợ, chồng. Đồng thời xác định rõ các quyền lợi, nghĩa vụ của vợ chồng liên quan đến tài sản của mình.
Thứ ba, khi vợ, chồng thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình nhằm đảm bảo đời sống chung của gia đình luôn liên quan đến quyền lợi của bên thứ ba trong các giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi của mình, pháp luật quy định người thứ ba tham gia giao dịch cần phải biết rằng trường hợp nào giao dịch đó được bảo đảm bằng tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của vợ, chồng.
Thứ tư, việc quy định chế độ hôn sản trong pháp luật là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về hôn sản giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ chồng với người thứ ba của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, chế độ hôn sản được nhà làm luật dự liệu do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập; phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa để Nhà nước quy định trong pháp luật về chế độ hôn sản.
Xuất phát từ tính chất và mục đích của quan hệ hôn nhân cũng như các lý do trên đòi hỏi cần phải có một cơ chế pháp lý đặc biệt để điều chỉnh vấn đề hôn sản.
Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 bên cạnh việc duy trì áp dụng chế độ hôn sản luật định còn thừa nhận chế độ hôn sản theo thỏa thuận. Có thể thấy, đây là một thay đổi lớn trong tư duy lập pháp ở Việt Nam, theo đó cần có một khái niệm về chế độ hôn sản bao quát và đầy đủ hơn.
Từ những quy định mới này, theo tôi, có thể đưa ra khái niệm về chế độ hôn sản như sau:
Chế độ hôn sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; thỏa thuận xác lập chế độ hôn sản; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng.
1.1.2. Đặc điểm của chế độ hôn sản
Thứ nhất, xét về chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ hôn sản, các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của nhau. Do vậy, để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài việc có đầy đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi họ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong Luật HN&GĐ (ví dụ, các điều kiện về độ tuổi kết hôn, điều kiện về sự tự nguyện, không vi phạm các điều cấm kết hôn ...).
Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, Nhà nước bằng pháp luật khi quy định về chế độ hôn sản đều xuất phát từ mục đích trước tiên và chủ yếu là bảo đảm quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích của cá nhân vợ, chồng; từ đó, luật định dù vợ chồng lựa chọn loại chế độ hôn sản nào thì cũng đều phải có nghĩa vụ đóng góp công sức, tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu, bảo đảm đời sống chung của gia đình.
Thứ ba, căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản này dựa trên sự kiện phát sinh, chấm dứt của quan hệ hôn nhân. Hay nói cách khác, chế độ hôn sản chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân (Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân).
Thứ tư, trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể, đối với tài sản chung việc vợ, chồng sử dụng tài sản để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. Thông thường, khi vợ, chồng sử dụng tài sản chung để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình thì pháp luật coi là có sự thỏa thuận mặc nhiên của hai vợ chồng. Việc định đoạt hững tài sản có giá trị lớn (như bất động sản, động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản đang là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình) phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của cả hai vợ chồng. Đối với tài sản riêng thì vợ, chồng có quyền tự định đoạt tài sản của mình mà không phụ thuộc ý chí của bên kia. Tuy nhiên, trong một số trường hợp quyền năng này của họ bị hạn chế (ví dụ, nếu tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của gia đình, khi định đoạt tài sản này phải có sự thỏa thuận của vợ chồng).
1.1.3. Ý nghĩa của chế độ hôn sản
Chế độ hôn sản phản ánh trung thực và chính xác trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí của mỗi nước. Trong mỗi quốc gia, mỗi chế độ xã hội luôn có một chế độ HN&GĐ tương ứng được xác lập bằng quy định pháp luật hoặc thừa nhận bằng tập quán, trong đó có chế độ hôn sản.
Chế độ hôn sản có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ, chồng, tạo ra những nguyên tắc, cách thức xử sự của vợ chồng trong quan hệ sở hữu tài sản, đảm bảo phù hợp quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
Chế độ hôn sản quy định cụ thể căn cứ xác lập, nguồn gốc, thành phần tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Khi xác lập quan hệ hôn nhân, vợ, chồng dù lựa chọn chế độ tài sản pháp định hay ước định thì các quy định về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng luôn được xác định cụ thể.
Chế độ hôn sản có ý nghĩa xác định quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng với nhau và với người thứ ba. Trên cơ sở xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, chế độ hôn sản xác định quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản đó. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ tài sản được thể hiện như sau: vợ, chồng có quyền sở hữu chung hợp nhất đối với tài sản chung, một người không thể tự ý định đoạt tài sản chung khi chưa có sự đồng ý của người kia; có quyền sở hữu riêng đối với tài sản riêng (nếu có) của mình, tuy nhiên, quyền sở hữu riêng kèm theo những hạn chế về quyền sở hữu trong một số trường hợp đặc biệt do tính chất đặc biệt của quan hê ̣hôn nhân.
Chế độ hôn sản là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng hoặc với người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của