Chế Độ Hôn Sản Theo Thỏa Thuận (Chế Độ Hôn Sản Ước Định)

vợ chồng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng hoặc người thứ ba. Trên cơ sở các quy định của chế độ hôn sản, cơ quan áp dụng pháp luật có căn cứ, nguyên tắc để giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ, chồng trong những trường cụ

thể, ví dụ: vợ chồng ly hôn, vợ chồng phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân, vợ hoặc chồng chết trước cần phân chia tài sản để chia thừa kế hoặc để giải quyết nghĩa vụ về tài sản của người đã chết với người thứ ba…

Ngoài ra, chế đô ̣ tài sản vơ ̣ chồng pháp điṇ h còn là những quy điṇ h mang tính

điṇ h hướng cho các căp

vơ ̣ chồng lưa

chọn thỏa thuân

chế đô ̣tài sản phù hơp

quy điṇ h

của pháp luâṭ, đảm bảo thỏa thuân phạm quy điṇ h pháp luâṭ.

chế đô ̣ tài sản vơ ̣ chồng không bị vô hiêu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

do vi

- Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật hôn nhân và gia đình được nhà nước quy định dựa trên sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội. Nó thể hiện tính giai cấp, bản chất của chế độ chính trị - xã hội cụ thể. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật của nhà nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí của nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó.

Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 1697215839 - 3

- Chế độ hôn sản được quy định trong pháp luật có ý nghĩa nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ hôn sản được dự liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng lựa chọn chế độ hôn sản nào (theo thỏa thuận hay luật định) đi chăng nữa thì cũng được pháp luật quy định rõ.

- Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ vợ chồng của chế độ hôn sản còn nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng. Với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản chung hay tài sản riêng (nếu có) của vợ chồng, vợ, chồng thực hiện các quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) đối với các loại tài sản này vì quyền lợi của gia đình hay lợi ích của cá nhân vợ, chồng theo quy chế pháp lý dành cho từng loại tài sản.

- Chế độ tài sản của vợ chồng được sử dụng với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau hoặc với những người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản cho các bên vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng.

Trong thực tế, để đáp ứng lợi ích cho gia đình, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái … trong suốt thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng phải ký rất nhiều hợp đồng với những người khác nhau liên quan đến tài sản của vợ chồng. Nhiều tranh chấp về

tài sản phát sinh giữa vợ chồng, liên quan đến những người khác. Nhờ có chế độ hôn sản được pháp luật quy định, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng luật giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng trong các trường hợp cụ thể dựa trên những nguyên tắc, căn cứ do pháp luật quy định.

1.2. Nội dung các loại chế độ hôn sản

Nhà làm luật ở mỗi quốc gia đều lựa chọn và xây dựng chế độ hôn sản phù hợp với điều kiện về kinh tế – xã hội, truyền thống, văn hóa, phong tục, tập quán của đất nước. Do đó, trong hệ thống pháp luật giữa những nước khác nhau cũng thường có những qui định khác biệt về chế độ hôn sản. Tuy nhiên, về cơ bản chế độ hôn sản được xác định dựa trên hai căn cứ: theo các qui định của pháp luật (chế độ hôn sản luật định) và sự thoả thuận bằng văn bản của vợ chồng (chế độ hôn sản ước định).

1.2.1. Chế độ hôn sản luật định

Chế độ hôn sản luật định là một giải pháp được nhà làm luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận trong pháp luật như một giải pháp thay thế trong trường hợp vợ chồng không có thoả thuận bằng hôn ước, hoặc với mục đích để vợ chồng lựa chọn chế độ hôn sản áp dụng cho họ (phổ biến trong pháp luật ở các nước phương Tây như Pháp, Nhật Bản, Canađa, Australia, Thái Lan); một số nước lại qui định chế độ hôn sản luật định như là căn cứ duy nhất để xác định tài sản của vợ chồng (phổ biến trong pháp luật HN&GĐ các nước XHCN như Việt Nam trước khi có Luật HN&GĐ năm 2014, Trung Quốc, Liên xô cũ, Cu Ba…). Chế độ hôn sản luật định dự liệucác vấn đề về căn cứ, nguồn gốc thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng của vợ chồng được pháp luật đã dự liệu từ trước. Chế độ tài sản này được tất cả các nước dự liệu trong hệ thống pháp luật của mình, nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng. Điều 1387 BLDS Cộng hòa Pháp quy định: “Luật pháp chỉ điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài sản khi không có thỏa thuận riêng mà vợ chồng có thể làm vì cho rằng điều đó là cần thiết, miễn sao những thỏa thuận đó không trái với thuần phong mỹ tục và những quy định sau đây …”, và tại Điều 1400 của Bộ luật này cũng quy định:”Chế độ cộng đồng tài sản được thiết lập khi không có hôn ước hoặc khi vợ chồng tuyên bố kết hôn theo chế độ cộng đồng tài sản” [40, tr 87].

Dưới ảnh hưởng của nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ hôn sản luật định không có hiệu lực áp dụng một cách đương nhiên mà trái lại,

nó chỉ là chế độ tùy nghi, là giải pháp thay thế, dự phòng. Những người kết hôn hoàn toàn có quyền tự do thoả thuận chế độ tài sản cho riêng mình. Nếu họ không thiết lập những thoả thuận về vấn đề này thì chế độ tài sản pháp định sẽ đương nhiên được áp dụng.

Về hình thức, chế độ hôn sản luật định trong pháp luật của các quốc gia được thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau và thường được quy định dưới hai hình thức: Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn cộng đồng (chế độ tài sản cộng đồng) và chế độ tài sản theo tiêu chuẩn phân sản (chế độ phân sản).

Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn cộng đồng

Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn cộng đồng là hình thức phổ biến của chế độ hôn sản luật định. Việc thừa nhận chế độ tài sản cộng đồng là xuất phát từ quan điểm lợi ích của vợ chồng phải chịu sự chi phối bởi tính chất cộng đồng của hôn nhân và lợi ích chung của gia đình. Chế độ tài sản cộng đồng có đặc điểm cơ bản là trong quan hệ sở hữu giữa vợ và chồng luôn tồn tại khối tài sản chung và các nghĩa vụ tài sản được bảo đảm bằng tài sản chung của vợ chồng. Về cơ bản, chế độ tài sản này cũng được qui định chủ yếu ở ba hình thức sau:

- Chế độ cộng đồng tạo sản:

Chế độ cộng đồng tạo sản có đặc điểm là tài sản chung của vợ chồng chỉ được xác định đối với những tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản khác không phân biệt động sản hay bất động sản mà vợ, chồng có được trước khi kết hôn, hay được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng. Đây là giải pháp được qui định phổ biến trong pháp luật về HN&GĐ của nhiều nước: Luật gia đình Cộng hoà Cu Ba (Điều 30 và 32), Luật gia đình Bun ga ri (Điều 13), BLDS Cộng hoà Pháp sửa đổi năm 1965(Từ Điều 1401 đến Điều 1408), BLDS Nhật Bản (Điều 762), BLDS và thương mại Thái Lan (Điều 1471 và Điều 1474)… đều ghi nhận chế độ tài sản cộng đồng này. Điều 13 Luật hôn nhân năm 1980 của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa qui định: “Tài sản của vợ chồng làm ra trong suốt thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, ngoài ra, mỗi bên có thể có tài sản riêng ngoài qui định trên”. Điều 1401 BLDS Cộng hoà Pháp cũng qui định: Tài sản cộng đồng gồm những thu nhập chung của hai vợ chồng hoặc thu nhập riêng của từng người trong thời kỳ hôn nhân và có nguồn gốc từ công việc làm ăn của họ, cũng như từ những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng của họ.

Tại Việt Nam, Luật HN&GĐ cũng được các nhà lập pháp xây dựng theo hướng lựa chọn chế độ cộng đồng tạo sản này để áp dụng cho các cặp vợ chồng từ khi xác lập quan hệ hôn nhân (Luật HN&GĐ năm 1986; Luật HN&GĐ năm 2000; Luật HN&GĐ năm 2014).

Việc chế độ cộng đồng tạo sản được thừa nhận rộng rãi ở các nước là do chế độ này rất phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi nước. Một mặt, nó không làm phá vỡ chế độ tài sản chung của vợ chồng – nền tảng cơ bản của quan hệ HN&GĐ, mặt khác chế độ tài sản này còn tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng có thể chủ động trong việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, ngăn chặn các trường hợp kết hôn với mục đích không lành mạnh, việc kết hôn chỉ nhằm vào khối tài sản đã sẵn có của bên kia.

- Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản:

Trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội tư bản, bất động sản được coi trọng như là một tài sản chính yếu hiện hữu và chắc chắn dẫn đến chế độ cộng đồng động sản và tạo sản được xác lập một cách phổ biến ở các nước phương Tây. Chế độ này cũng thừa nhận trong hôn nhân bao gồm có tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng như trong chế độ cộng đồng tạo sản. Tuy nhiên, chế độ cộng đồng động sản và tạo sản lại xác định tài sản của vợ chồng dựa trên việc phân định tài sản của vợ, chồng là động sản hay bất động sản. Theo đó, khối tài sản chung chỉ bao gồm các động sản của vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân, các hoa lợi và các bất động sản mà vợ, chồng mua lại bằng tài sản chung. Vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với bất động sản có trước khi kết hôn và bất động sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.

Việc qui định chế độ cộng đồng động sản và tạo sản là xuất phát từ quan điểm của nhà làm luật một số nước cho rằng: Vợ, chồng phải để dành cho mình làm của riêng những tài sản chính của mình và theo các nhà làm luật đó là bất động sản. Chế độ tài sản này đã được quy định trong BLDS Pháp năm 1804, SL 15/64 ngày 23/7/1964 của Chế độ Sài Gòn cũ…. Điều 53 của Sắc luật 15/64 quy định: “Chế độ cộng đồng tài sản là là chế độ phu phụ tài sản thường luật, trong trường hợp vợ chồng không có làm hôn ước hoặc khai kết hôn dưới chế độ cộng đồng tài sản. Chế độ này khởi đầu tư ngày lập hôn thú. Không ai có thể định đoạt một ngày nào khác cho sự khởi điểm này” [ 4, tr.33].

Cũng theo Sắc luật này thì khối cộng đồng tài sản gồm có: động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng ngày hôn thú thành lập; động sản của vợ hay chồng

được thừa kế hay tặng giữ, hay sự di tặng … trong thời gian hôn thú; động sản và bất động sản của vợ hay chồng tạo mãi trong thời gian hôn thú; hoa lợi của tất cả những tài sản không phân biệt thủ đắc trước hay trong thời gian hôn phối.

Ngoài ra, đối với những bất động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng trước ngày xác lập hôn nhân hoặc có được trong thời kỳ hôn nhân do được tặng cho riêng, thừa kế riêng sẽ thuộc quyền sở hữu riêng của vợ, chồng (Điều 55). Những quy định của chế độ cộng đồng động sản và tạo sản trong SL 15/64 đã được ghi nhận lại trong BLDS 1972 dưới chế độ Ngụy quyền Sài Gòn tại các điều 150, 151, 152 …

Tuy nhiên, chế độ tài sản cộng đồng này chỉ phù hợp với giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội mà ở đó người ta lấy bất động sản là tiêu chí xác định thành phần chính yếu và chắc chắn của tài sản trong gia đình. Trong điều kiện phát triển kinh tế ở mức công nghiệp hoá, hiện đại hoá cao hiện nay, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng dựa trên sự phân tách động sản và bất động sản đã mất đi sự công bằng trong gia đình và đã không đảm bảo được mục đích đề ra ban đầu của nhà làm luật, vì lúc này tài sản chính yếu không phải là bất động sản mà thường là những tài sản thuộc về động sản, quyền tài sản hoặc các giấy tờ trị giá được bằng tiền (cổ phiếu, chứng khoán…). Do đó, nhiều nước trước đây thừa nhận chế độ cộng đồng động sản và tạo sản nay đã tìm một chế độ tài sản cộng đồng khác thay thế để phù hợp với thực tiễn hơn.

Việc thực hiện chế độ tài sản này khá phức tạp. Nếu vợ chồng không có những thoả thuận khác, họ phải tuân theo những quy định về quản lí tài sản và thanh toán tài sản được dự liệu trong chế độ hôn sản pháp định. Vì thế, đây là chế độ tài sản không được khuyên dùng (không phải chỉ riêng ở Pháp), bởi tính phức tạp của nó, trong khi thoả thuận của vợ chồng về tài sản thường hướng tới sự đơn giản [“15, tr25]

-Chế độ cộng đồng toàn sản

Khác với hai chế độ tài sản cộng đồng trên, chế độ cộng đồng toàn sản không thừa nhận quyền sở hữu riêng của vợ, chồng mà chỉ thừa nhận quyền sở hữu chung. Theo đó toàn bộ tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung. Đối với những tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn do công sức vợ, chồng tạo dựng hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng; những tài sản mà vợ chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân, không kể nguồn gốc, công sức đóng góp của vợ, chồng; những tài sản mà vợ chồng được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung của vợ chồng. Các quy định trên được nhà làm luật xây dựng xuất phát từ quan niệm nhu cầu chung, lợi ích

chung của gia đình là tối cao, tài sản của vợ chồng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ là vì mục đích đó, nên tất cả tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân phải thuộc khối tài sản chung, quyền có tài sản riêng không được thừa nhận vì mâu thuẫn với lợi ích của gia đình (Điều 54).

Hệ thống pháp luật ở nước ta dưới chế độ cũ đã dự liệu chế độ cộng đồng toàn sản là chế độ tài sản pháp định (theo DLBK năm 1931, DLTK năm 1936, LGĐ năm 1959).

Theo Điều 47 Luật Gia đình ngày 2/1/1959 quy định: “Nếu không có hôn ước đặc biệt, vợ chồng sẽ được đặt dưới chế độ cộng đồng tài sản, chế độ này gồm tất cả tài sản và hoa lợi của chồng và vợ …” [25, tr19]

Bên cạnh đó, trong hệ thống Luật HN&GĐ của Nhà nước ta cũng đã từng quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo tính chất cộng đồng toàn sản này nhưng có sự khác biệt so với các quy định trong các văn bản pháp luật dưới chế độ phong kiến – thực dân là ở chỗ: bảo đảm các quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng bình đẳng, theo nguyên tắc nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình (Luật HN&GĐ năm 1959). Trong khi đó, các quy định về tài sản chung của vợ chồng trong DLBK năm 1931, DLTK năm 1936 và LGĐ năm 1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm đã dành cho người chồng những đặc quyền riêng biệt nhưng lại rất bất công đối với người vợ trong gia đình.

Chế độ phân sản

Bên cạnh chế độ tài sản cộng đồng, trong pháp luật của một số nước phương Tây còn ghi nhận thêm chế độ phân sản hay còn gọi là chế độ biệt sản. Theo chế độ này, giữa vợ và chồng không tồn tại khối tài sản chung, tất cả các loại tài sản mà mỗi bên vợ, chồng đã có từ trước khi kết hôn hoặc tạo ra (hay có được do tặng cho riêng, thừa kế riêng) trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của vợ chồng. Với tư cách là chủ sở hữu người chồng hay người vợ có toàn quyền trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Như vậy, không có sự thống nhất quyền quản lý cũng như không có khối tài sản chung giữa vợ chồng. Tuy nhiên, do tính chất của quan hệ hôn nhân, khi vợ chồng cùng chung sống với nhau, đòi hỏi vợ, chồng có những khoản chi tiêu nhằm bảo đảm lợi ích chung của gia đình; pháp luật dự liệu mỗi bên vợ, chồng tùy theo khả năng mà có nghĩa vụ đóng góp vào việc chi tiêu chung đó vì quyền lợi gia đình.

Trong chế độ phân sản còn có một biến thái nữa là chế độ hồi môn. Chế độ tài sản này đã từng được áp dụng ở Italia, ở Anh. Pháp luật cổ ở Italia không biết đến chế

độ cộng đồng, nên nước này không dựa theo BLDS Pháp. Chế độ tài sản pháp định ở Italia là chế độ hồi môn. Khi một đôi vợ chồng tạo lập một tài sản thành của hồi môn, họ phải ký một hôn ước theo chế độ của hồi môn. Vì vậy, tại nước này, chế độ tài sản áp dụng cho những đôi vợ chồng không lập hôn ước là chế độ phân sản. Tương tự, ở Anh chế độ phân sản cũng đã từng được áp dụng từ trước năm 1857.

Chế độ hồi môn có nguồn gốc từ Luật La Mã cổ đại. Chế độ hồi môn dựa trên quan niệm cần phải bảo vệ quyền lợi của người vợ về phần tài sản hồi môn trong mọi trường hợp. Dưới chế độ này, người vợ sẽ giữ quyền sở hữu, quyền hưởng dụng và quyền quản lý một số tài sản riêng của mình. Đây là chế độ tài sản mà sự vận hành của nó là đơn giản nhất. Mỗi bên vợ, chồng tự do quản lí và định đoạt các tài sản, thu nhập sau khi thực hiện nghĩa vụ đóng góp đối với đời sống chung. Chế độ tài sản riêng biệt trao cho vợ, chồng khả năng tự chủ rất cao về tài sản, là sự lựa chọn hợp lí nhất cho những cặp vợ chồng có nhiều tài sản riêng mà họ đều có khả năng quản lí hoặc những vợ chồng tiến hành các công việc sản xuất, kinh doanh mà họ cần tránh những rủi ro có thể xảy ra đối với gia đình do những thất bại của việc kinh doanh. Tuy nhiên, chế độ tách riêng tài sản cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Nó bị đánh giá là chế độ “ích kỉ” nhất, vì thực chất đó là cơ chế bảo toàn tài sản của cá nhân. Do vậy, chế độ này không nên được áp dụng trong những trường hợp mà chỉ có một bên vợ hoặc chồng tham gia vào các hoạt động tạo ra nhiều tài sản còn bên kia chỉ làm công việc nội trợ. Khi chấm dứt chế độ tài sản, người không trực tiếp tạo ra lợi tức sẽ chịu nhiều bất lợi mặc dù đã được tính toán đền bù công sức đóng góp.

Có thể thấy, trong quá trình xây dựng pháp luật, các nhà lập pháp phương Tây đã cố gắng cân bằng hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích gia đình. Tuy nhiên, xuất phát từ nên kinh tế tư bản, coi trọng quyền từ do cá nhân nên trong các quy định vẫn mang hơi hướng đề cao quyền tự do cá nhân, xem nhẹ lợi ích gia đình, cộng đồng dẫn đến việc xây dựng, duy trì, phát triển gia đình sai bản chất và mục đích đề ra.

1.2.2. Chế độ hôn sản theo thỏa thuận (chế độ hôn sản ước định)

Khi áp dụng chế độ hôn sản ước định, vợ chồng được tự do thỏa thuận về chế độ tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận đó được gọi là hôn ước. Hôn ước (hôn khế) là sự thoả thuận bằng văn bản (hợp đồng) do vợ chồng lập trước khi kết hôn để qui định chế độ tài sản của trong suốt thời kỳ hôn nhân. Nội dung của hôn ước thường xác định tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản đó cũng như trong việc thực hiện các giao dịch giữa họ với người thứ ba

Xuất phát từ quan điểm, tư tưởng khác nhau mà giữa các quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa và các quốc gia tư bản chủ nghĩa có cách nhìn nhận và điều chỉnh về vấn đề chế độ hôn sản khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các luật gia trên thế giới đều thừa nhận, vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng luôn là một vấn đề chứa đựng tính phức tạp trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.

Mặc dù hệ thống pháp luật được xây dựng nhằm điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong xã hội trong từng thời kỳ đòi hỏi phải phù hợp với các điều kiện khách quan, chủ quan của chính quốc gia đó. Tuy nhiên, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập, nhu cầu giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cũng như ảnh hưởng của truyền thông và tư tưởng pháp lý, về cơ bản giữa những nước có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tương đồng thì có những quan điểm tương tự nhau về chế độ hôn sản.

Ở các quốc gia phương Tây, với nền kinh tế phát triển nhanh, đa dạng, khoa học kỹ thuật tiên tiến, sớm tiếp cận với nền văn minh nhân loại và có nhiều tư tưởng tiến bộ mọi mặt. Đặc thù của pháp luật HN&GĐ của các quốc gia này là sự đề cao quyền tự do cá nhân, tự do thỏa thuận và quyền tự do định đoạt của các chủ thể trong quan hệ HN&GĐ, đặc biệt là trong quan hệ giữa vợ và chồng. Trong quan niệm của các nhà lập pháp, hôn nhân thực chất là một loại “hợp đồng dân sự” và chỉ khác với những loại hợp đồng dân sự thông thường khác trong việc thiết lập (việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước hoặc nhà thờ có thẩm quyền theo một nghi thức đặc biệt được quy định trong pháp luật) và trong việc chấm dứt (theo quy định của pháp luật, hôn nhân chỉ chấm dứt khi có sự kiện vợ, chồng chết hoặc khi có bản án quyết định của Tòa án về ly hôn có hiệu lực pháp luật, tất cả các trường hợp chấm dứt ly hôn này phải được tiến hành theo thủ tục hành chính hoặc thủ tục tố tụng tại Tòa án đã được pháp luật quy định).

Do đó, trong quan hệ hôn nhân, quyền của vợ, chồng tự do lập hôn ước đã trở thành một nguyên tắc và là giải pháp đầu tiên khi quy định chế độ hôn sản vợ chồng. Chế độ hôn sản của vợ chồng trước hết phải do chính bản thân vợ chồng lựa chọn, thỏa thuận; pháp luật chỉ dự liệu cho họ một chế độ hôn sản khi và chỉ khi giữa họ không có thỏa thuận về chế độ hôn sản hoặc không thỏa thuận được một chế độ tài sản thống nhất, phù hợp cho mình. Quan điểm này được thể hiện rất rõ ràng và cụ thể trong các quy định của Cộng hòa Pháp.

Pháp là quốc gia đầu tiên thuộc hệ thống civil law chính thức ghi nhận giá trị pháp lý của hôn ước trong văn bản qui phạm pháp luật, đó là BLDS năm 1804 hay còn

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 13/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí