Triết Lý Đạo Gia Và Khát Vọng Tiêu Dao Trong Vũ Trụ

bình bên Chúa. Trước những buồn bã, cô đơn, bế tắc trong cuộc đời có lúc Huy Cận đã trình bày nhu cầu giải thoát theo quan niệm đó:

Hỡi Thượng đế! Tôi cúi đầu trả lại Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang Sầu đã chín, xin Người thôi hãy hái

Nhận tôi đi dầu địa ngục, thiên đường.

(Trình bày)

Rõ ràng đây là một hướng giải thoát mang tính tiêu cực nhưng nó thể hiện sự chối bỏ thực tại một cách quyết liệt. Bên cạnh hướng giải thoát này Huy Cận còn có hướng giải thoát tinh thần bằng con đường trở về quá khứ, tới chốn trời xa cõi biếc để gặp hồn xa và vẻ đẹp xa. Khuynh hướng đã thể hiện rõ qua Lửa thiêng và càng đậm nét hơn trong Vũ trụ ca.

3.2.2.Triết lý Đạo gia và khát vọng tiêu dao trong vũ trụ

Trong thơ Huy Cận Trước Cách mạng Tháng Tám có một thế giới tươi thắm, huy hoàng, tốt đẹp mà nhà thơ gọi là “trời xa”, “cõi biếc”. Chỉ có nơi ấy, những linh hồn mới tìm được sự bình yên và niềm hạnh phúc trong sự hoà đồng:

Trời buổi ấy trong thời tình tự

Xuân muôn năm tơ mởn cỏ bên đường Ngời thì đẹp mà lòng ta mới nở

Gió mơn ru và mây giục yêu đương Hoa nắng rải trên màu tóc đượm Áo lùa bay thấp thoáng lá chen phơi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.

Lòng non dại đã hóa thành chiếc bướm Cánh bâng khuâng bay tới đậu bên người.

(Bi ca)

Cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử và Huy Cận - 8

Những câu thơ trên đã tạo dựng một bức tranh có chủ đề: Mùa xuân vĩnh viễn. Tất cả cảnh vật đều tươi mới, tinh khôi và dạt dào tình ý. Cỏ non xanh, gió mơn ru, hoa nắng rải, lá chen phơi, bướm bâng khuâng đôi cánh. Đây không chỉ là mùa xuân của đất trời vạn vật mà còn là mùa xuân của những tấm

lòng “non dại” luôn mở ra đón nhận yêu thương. Từ mặt đất, thi nhân “nằm im dưới gốc cây non và say mê “Nhìn xuân trải lụa muôn tờ lá non” rồi từ chùm lá non hướng thẳng lên bầu trời, cái gần trước mắt được nâng lên khoảng xa xanh trong chiều sâu vô tận của không gian:

Giữa trời hình lá con con

Trời xa sắc biển, lá thon mình thuyền Gió qua là ngọn triều lên

Hiu hiu gió đẩy thuyền lên biển trời. Chở hồn lên tận chơi vơi

Trăm chèo của Nhạc, muôn lời của Thơ Quên thân như đã quên giờ

Tê mê cõi biếc bến bờ là đâu.

(Trông lên)

Hình ảnh liên tưởng quan trọng nhất trong bài thơ này là chiếc lá con thuyền. Từ sự tương đồng về hình dáng, Huy Cận đã liên tưởng chiếc lá với con thuyền. Con thuyền ở phương Tây là một biểu tượng mang tính tôn giáo. Con thuyền là phương tiện chở linh hồn về Thiên đàng. Với biểu tượng đó nhà thơ nói lên niềm hướng vọng của con người vào thế giới linh thiêng bất diệt.

Thế giới “trời xa”, “cõi biếc” trong thơ Huy Cận phần nào giống thế giới Thiên thai trong thơ Thế Lữ, giống ở vẻ đẹp hài hoà, ở không gian êm dịu. Nhưng thế giới Thiên thai của Thế Lữ chỉ có Tiên Nga, Ngọc Nữ, Kim Đồng. Còn thế giới “trời xa”, “cõi biếc” của Huy cận lại có cả con người cùng cỏ cây hoa lá xanh tươi. Đó là một thế giới hài hòa giữa con người và vạn vật: Chân cây đứng, và chân người qua đấy/ Bóng chân người xen giữa bóng chân cây (Họa điệu)

Nếu như ở Lửa thiêng là niềm tâm sự của kẻ mất thiên đường luôn khát khao trở về với Thượng đế , thì ở Vũ trụ ca là hành trình siêu thoát theo quan niệm tiêu dao của Trang tử. Đó là hành trình của con người rời bỏ mặt đất, cưỡi nhật nguyệt để đến trời xa:

Đi trong đêm rộng nghìn xa vắng Ta đã theo sao đến đỉnh trời

Ta tạm nguôi quên buồn thế hệ Tâm tư bè bạn gió trăng ơi!

Ta đã đi trong lòng vũ trụ

Nhìn Đất yêu thương xứ sở Người Ta đã buồn, vui như sóng bể Nghìn năm mặn đắng trải xa khơi.

(Tao phùng)

Khi con người đã ngộ Đạo, họ có thể ngao du trong vũ trụ bao la:

Ngồi xe nhật nguyệt cùng thiên nhiên Làm bạn đi đường về vĩnh viễn

(Mộng sắc duyên)

Cái cảm giác chật chội trong Lửa thiêng nhường chỗ cho cảm giác thoải mái bay lượn trong không gian rộng lớn của Vũ trụ ca. Âm hưởng bao trùm của Lửa thiêng là buồn thì âm hưởng bao trùm trong Vũ trụ ca là những “lượng vui” vô bờ bến, đâu đâu cũng thấy vui say hân hoan ngây ngất:

Lượng xuân trời đất vui chưa hết Sông Nhị dòng hăng nước chảy ào

(Xuân Hành)

Lượng vui muôn kiếp cân đầu sóng Biển rủ rê lòng nhập cuộc say

(Lợng vui)

Đây là niềm vui của con người vừa được siêu thoát khỏi trần giới. Từ đây vũ trụ không còn là khát vọng muốn được chiếm lĩnh nữa mà con người đã siêu thoát để sống trong lòng vũ trụ:

Hoa gọi trời xanh phất quạt hồng Trời xanh hái cụm hoa tinh khiết

Mỗi bước bừng khơi một suối ngày

(Xuân Hành)

Cả không gian ngập tràn thanh sắc tươi mới, ngất ngây của vũ trụ trong hội hoa đăng, trong tiếng gọi tha thiết của đất trời:

Nằm trong lòng đất suối nghe biển Ân ái xôn xao triều hiển hiện

Biển gọi tha thiết đất khóc oà Suối xuống, triều lên, đời bao la

(Suối)

Huy Cận đã truyền cả cái rạo rực, say mê vào cảnh vật. Trong không gian giao hoà đầy màu sắc, âm thanh, hương thơm, trong nhịp sống tràn căng “nhựa mạnh tuôn trào”, hồn thi nhân trải ra trong những niềm vui ngọt ngào tưởng chừng bất tận. Niềm vui trong Vũ trụ ca là niềm vui của một người ảo tưởng đã vượt thoát được những ràng buộc xã hội, được phiêu diêu trong cõi vô định và được tự do về tinh thần. Đây là một hình thức giải thoát đầy ảo tưởng, mang đậm màu sắc tôn giáo.

3.3. Cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Huy Cận sau Cách mạng Tháng Tám

Albert Einhtein nhà bác học lừng danh đã phát biểu cảm xúc sâu xa nhất của con người là cảm xúc trước sự huyền bí. Thơ Huy Cận không chỉ có chiều sâu về cảm xúc mà còn là chiều sâu về tầm tư tưởng rộng lớn. Trước Cách mạng Tháng Tám, với Huy cận, tôn giáo chính là lẽ huyền vi cao nhất, là nơi cảm xúc dễ thăng hoa nhất để cắt nghĩa về cuộc đời. Chính vì vậy, tôn giáo không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn là chất liệu để nhà thơ xây dựng hình tượng nghệ thuật. Trong Lửa thiêng, Huy Cận sử dụng những chất liệu và triết lý tôn giáo để cắt nghĩa tình trạng bế tắc của con người trong cuộc đời. Đến Vũ trụ ca, nhà thơ đã đến với cảm hứng và chất liệu tôn giáo để thể hiện nhu cầu giải thoát. Sau Cách mạng Tháng Tám, cùng với sự đổi thay của cuộc sống dân tộc, tư tưởng của Huy Cận cũng thay đổi và cách nhìn nhận về tôn giáo cũng thay đổi theo. Nhà thơ chủ yếu sử dụng chất liệu tôn giáo như những phương tiện nghệ thuật để biểu

hiện cách nhìn của mình về cuộc sống con người trong quá khứ. Đây là cách nhìn tự tin, tỉnh táo, thấu hiểu được nỗi khổ, sự bế tắc của con người để từ đó cảm thông chia sẻ. Cách cảm nhận đó thể hiện nhất quán trong những bài thơ có liên quan đến đề tài tôn giáo mà Huy Cận viết sau cách mạng. Tiêu biểu nhất là các bài thơ Chùa Trăm gian, Trò chuyện với Kim Tự tháp, Các vị La Hán chùa Tây Phương.

Trò chuyện với Kim Tự tháp là bài thơ viết về công trình kiến trúc nổi tiếng của Ai Cập cổ đại. Đây là một kỳ quan chứa đựng nhiều bí ẩn, trước hết phục vụ cho mục đích tâm linh của người xa. Với hình thức trò chuyện với một chứng tích văn hóa tâm linh, Huy Cận đã nói lên những suy nghĩ về sự sống, về cái chết, về cái trường tồn và sự ngắn ngủi. Nhưng điều đáng quý là lúc nào Huy Cận cũng có cái nhìn nhân văn, khẳng định sự sống là trường tồn:

- Người thấy gì ?, Kim Tự tháp, nữa thôi ?

- May tôi còn thấy giữa muôn trùng gió lộng Thấy cái chết muốn trở thành sự sống

Cát kêu lên nỗi hoài vọng lớn lao

Là cái chết khô, cát muốn hóa tế bào Của tươi mát thịt da, hoa lá ...

Thấy cái sống muốn mọc từ cát đá”

(Trò chuyện với Kim Tự tháp - 1962)

Viết về các công trình kiến trúc tôn giáo, Huy Cận không đi vào thế giới tôn giáo mà chủ yếu đến với tâm sự của con người trong cuộc đời thực. Ông thấu hiểu nỗi đau khổ của con người khi tìm đến tôn giáo để xoa dịu nỗi khổ đau. Hướng tiếp cận ấy thể hiện thành công trong bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương. Bài thơ được đăng lần đầu tên trên báo Tết 1961, giữa không khí phấn chấn của năm đầu tiên miền Bắc bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Bài thơ như một luồng ánh sáng rọi lên những đau khổ và bế tắc của cha ông.

Chùa Tây Phương nằm ở Sơn Tây, có những pho tượng La Hán được các nghệ nhân thế kỷ 18 chạm khắc tinh xảo, rất sinh động. Năm 1940 khi còn là sinh viên canh nông, Huy Cận đi tìm hiểu di sản văn hóa của người xưa, ông đã có dịp tiếp xúc với các pho tượng La Hán chùa Tây Phương. Ông kể lại rằng, xem tượng

ra về lòng vấn vương, xao xuyến mãi vì những đau khổ của cõi đời hiện trên gương mặt và hình hài các pho tượng. Điều làm ông “vương vấn”, “xao xuyến” nặng lòng không phải xuất phát từ tôn giáo mà chính là những đau khổ của cuộc đời trầm luân và như vậy đây là sự rung động trước cuộc đời. Ông còn nói, rung động thì có, nh- ưng còn thiếu một ý thức đủ làm xương sống cho bài thơ, để giải thích, để tìm lối ra cho những đau khổ bế tắc đó. Huy Cận đã giữ lại trong lòng một cảm giác vương vấn khó tả:

Các vị La Hán chùa Tây Phương Tôi đến thăm về lòng vấn vương

Đúng hai mươi năm sau, cảm giác này đã thành hai câu mở đầu cho bài thơ. Sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng (1954), Huy Cận có nhiều dịp trở lại chùa Tây Phương, vì ý định viết về các vị La Hán vẫn còn đeo đuổi. Từ sự thai nghén, nghiền ngẫm và trăn trở về nỗi đau cuộc đời oằn lên hình hài các pho t- ượng La Hán, Huy cận đã nung nấu ý định viết thơ về các vị La Hán chùa Tây Phương. Như vậy, điều thôi thúc Huy Cận đến với Các Vị La Hán chùa Tây Ph- ương khi còn là sinh viên không phải với một tâm thế và tấm lòng của kẻ mộ đạo mà chính là một khao khát đi tìm hiểu các giá trị di sản văn hoá của dân tộc, của cuộc đời thực. Và có một điều rất nhân văn ở Huy Cận, thăm chùa Tây Phương ra về lòng nhà thơ không phải lâng lâng tự hào về di sản văn hoá của dân tộc, cũng không phải khâm phục về sự khéo léo tinh luyện của các nghệ nhân – Những người tạc tượng mà lòng Huy Cận nặng một nỗi đau đời, vương vấn về những nỗi khổ của kiếp người hiện hình rất rõ trên những gương mặt tượng. Ông cảm nhận những pho tượng đó chính là tâm sự, là cảm xúc của một thế hệ người Việt Nam được tạc vào thớ gỗ. Rõ ràng đến đây ta có thể hiểu cảm hứng xuất phát để Huy Cận làm bài thơ chính là cảm hứng nhân sinh, cảm hứng về cuộc đời. Nhưng từ cảm hứng nhân sinh đến cảm hứng tôn giáo không phải là một bước đi liền mạch của cảm xúc. Quả thực Huy Cận đã nung nấu và đi tìm sợi chỉ đỏ – con đường giải thoát nỗi khổ xuyên suốt 20 năm. Nếu chỉ dừng lại ở cảm hứng nhân sinh, xúc cảm trước nỗi đau khổ của cuộc đời để làm thơ chắc chắn bài thơ không thể thành hình được, bài thơ còn thiếu một xương sống làm hệ tư tưởng. Năm 1960, sau một khoá học tập lí luận chính trị cao cấp ở Trường Nguyễn Ái Quốc, Huy Cận vượt thoát được cái lúng túng thuộc quan niệm nhân sinh của ông, ngắm lại

các vị La Hán, ông cảm thông sâu sắc và kính cẩn trước nỗi đau khổ của cha ông trong quá khứ. Điều quan trọng là Huy Cận nắm được quy luật giải thoát nỗi đau đó. Như vậy từ cảm hứng nhân sinh vương vấn, nỗi day dứt về cõi Phật và cõi ng- ười trước nỗi khổ của cha ông trong quá khứ kéo dài trên chặng đường thời gian dài ngót 20 năm. Giờ đây, Huy Cận không phải là một tín đồ hướng tới Chúa để tìm sự giải thoát ở thế giới bên kia (Thiên Chúa giáo), cũng không phải các phật tử chủ trương diệt dục để thoát khổ, thoát cõi luân hồi (đạo Phật) mà chính là con người cuộc đời thực, là con người trong cõi nhân sinh. Chính vì vậy Huy Cận đã tìm ra quy luật giải thoát nỗi đau khổ của cuộc đời không phải ở giáo luật, giới luật mà chính là sự thay da đổi thịt của xã hội. Chừng nào xã hội “lên đường” thì cuộc đời mới có niềm vui, có ánh sáng.

Các vị La Hán Chùa Tây Phương! Hôm nay xã hội đã lên đường

Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại Xua bóng hoàng hôn tản khói sương.

Sự thay da đổi thịt ấy không gì khác là sự hy sinh xương máu của cha ông thuở trước, cái thuở mà “Sờ soạng cha ông tìm lối ra”. Quả không phải quá khi một nhà thơ Pháp nổi tiếng viết: “Huy Cận không chỉ là một nhà thơ lớn, ông còn là một con người đích thực”.

Bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương tuy không xuất phát từ cảm hứng tôn giáo nhưng chất liệu tôn giáo lại được sử dụng rất nhiều trong thi phẩm này. Nếu thiếu đi sự hiểu biết sâu sắc về Phật giáo thì khó có thể viết về các vị La Hán thành công như vậy.

La Hán tên đầy đủ gọi là A La Hán, phiên âm tiếng Hán từ một gốc Sangkrit – ngôn ngữ cổ của ấn Độ, thứ ngôn ngữ viết nên bản kinh Phật mà tinh thần của nó hầu như chiếm trọn các nước Á Đông. Các La Hán là những người chăm lo tu tập, khổ luyện tinh thần, nhằm cắt đứt mọi ham muốn nơi cõi đời để đạt đến tinh thần tự do – tức là Niết Bàn như Phật dạy. Sự cố gắng hành xác, sống khắc khổ của các vị được tạc thành tượng để làm gương cho đời sau. Về ý nghĩa Phật Giáo, La Hán là những người cha thành Phật nhưng là nấc thang cuối cùng, là sự tu tập, khổ luyện cuối cùng để trở thành Phật. Vậy trước khi trở

thành Phật các bậc chân tu đã trải qua cuộc sống khổ cực của các vị A La Hán. Huy Cận đã thật tinh tường khi nắm bắt và giải mã được điểm giao hay chính xác hơn là nét tương đồng giữa tôn giáo và cuộc đời hay mở rộng ra là tôn giáo và nghệ thuật.

Chùa chiền là nơi linh thiêng huyền ảo, là nơi con người tìm về một nơi yên bình, hạnh phúc vĩnh viễn, không có khổ đau không có chết chóc, tất cả sống trong cực lạc. Vậy mà sự đau khổ, quằn quại lại hiện hình rất rõ trên từng gương mặt tượng.

Há chẳng phải đây là xứ Phật Mà sao ai nấy mặt đau thương?

Xứ Phật xa vời, mơ hồ nào đó không ai biết nhưng đau khổ thì được thể hiện rõ ràng, minh bạch đường nét, hình khối hẳn hoi. Phải chăng có điều gì ẩn giấu dưới tất cả vẻ mặt ấy? Phải chăng những nét biểu hiện trên gương mặt chỉ là hình tướng bên ngoài để chứa đựng cả đời sống tinh thần thể biện bên trong? Cái ta nhìn thấy được chỉ là hữu hình, còn giá trị vô hình to lớn ẩn giấu bên trong cái hiện hữu ấy ta không nắm bắt được. Bản thân hai câu thơ ấy đã thể hiện triệt để tư tưởng sắc – không của đạo Phật. Cõi Phật khổ đấy (nhưng lại không khổ…Trên con đường đến Phật các vị A La Hán phải chứng khổ để diệt khổ. Khi các vị A La Hán được đắc chứng thì mới trở thành Phật, siêu thoát vào cõi cực lạc, chỉ có niềm vui và hạnh phúc vô biên. Huy Cận đã nắm bắt được những nét thần nhất của mỗi pho tượng để rồi nói lên những trạng thái đau khổ kia thành thơ, nên thơ.

Đây vị xương trần chân với tay Có chi thiêu đốt tấm thân gầy Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt Tự bâý ngồi y cho đến nay.

Các nỗi đau khổ hành hạ da thịt “xương trần chân với tay” khiến người đọc liên tưởng tới tất cả kiếp sống đoạ đày. Không chỉ đau khổ về thân xác mà nó còn là nỗi đau tinh thần. Nỗi đau của những kiếp nhân sinh đã chịu đựng qua

Xem tất cả 81 trang.

Ngày đăng: 07/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí