Sự Cần Thiết Phải Hoàn Thiện Các Quy Định Của Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Về Miễn Trách Nhiệm Hình Sự

quan tiến hành tố tụng còn hạn chế. Việc vận dụng pháp luật trong mỗi vụ án hình sự cụ thể còn lúng túng, đánh giá tính chất và mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội không đúng, sự nhận thức về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự còn nhầm lẫn với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, với trường hợp không có tội, với căn cứ đình chỉ vụ án... Tất nhiên ở đây đại đa số cán bộ, chiến sĩ của chúng ta đều có "tâm" trong công việc và vì công việc, có chuyên môn, nghiệp vụ nhưng vẫn chưa đủ "tầm" nhận thức để áp dụng và quyết định chính xác. Ngoài ra, ở một số địa phương, biên chế dành cho các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu và không ổn định về mặt tổ chức (nhất là cơ quan Viện kiểm sát), cho nên hoạt động kiểm sát điều tra chưa thường xuyên, liên tục, chặt chẽ, biện pháp quản lý chưa phù hợp, các vi phạm của cơ quan Điều tra chậm bị phát hiện và kịp thời xử lý.

Thứ ba, về phương pháp, lề lối làm việc, trách nhiệm của cán bộ làm công tác đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án và kiểm sát các hoạt động này chưa cao, nên việc quản lý, xử lý giải quyết vụ án chưa thật sâu, kỹ. Sự chỉ đạo, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới chưa được thường xuyên, liên tục, kịp thời, nên còn dẫn đến việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án nói chung, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự còn chưa đúng pháp luật, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, gây ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm [80], [86].

Thứ tư, do sự phát triển của khoa học-công nghệ, sự tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế, sản xuất ngày nay đã làm nảy sinh nhiều hiện tượng xã hội mới, liên quan tới quá trình hình sự hóa và phi hình sự hóa, tội phạm hóa và phi tội phạm hóa nên thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng một số trường hợp và coi đó là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự để đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án dẫn đến áp dụng pháp luật chưa đúng. Cho nên, tồn tại này đòi hỏi pháp luật hình sự nước ta cần phải kịp thời khắc phục.


Chương 3‌

HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ


3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

Trước yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế, cũng như nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống các loại tội phạm và vi phạm pháp luật, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội... thì một trong những biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng là hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật hình sự nói riêng. Bởi lẽ, việc đổi mới pháp luật và hoàn thiện pháp luật hình sự hiện hành "chính là một trong nhiều yếu tố cơ bản mà nếu như thiếu nó thì việc xây dựng Nhà nước pháp quyền không thể thành công, vì các quy định của pháp luật hình sự chính là những căn cứ pháp lý quan trọng nhất của Nhà nước pháp quyền" [7, tr. 70] để đấu tranh phòng chống tội phạm và xử lý nghiêm minh những người phạm tội, để góp phần tăng cường pháp chế và củng cố trật tự pháp luật, đồng thời bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và tự do cơ bản của công dân, cũng như lợi ích của xã hội và của Nhà nước.

Do đó, việc hoàn thiện các quy định về miễn trách nhiệm hình sự cũng không nằm ngoài mục đích hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, đồng thời sự cần thiết phải hoàn thiện chế định này còn thể hiện trên các phương diện thực tiễn, lý luận và lập pháp dưới đây mà chúng ta sẽ lần lượt xem xét.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 153 trang tài liệu này.

3.1.1. Về phương diện thực tiễn

Thứ nhất, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự vẫn còn có một số trường hợp miễn trách nhiệm hình sự không đúng pháp luật, không có căn cứ pháp lý dẫn đến để lọt tội phạm và người phạm tội. Cụ thể, việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho người phạm tội chưa đầy đủ và chính xác. Có người rõ ràng là phạm tội, phạm tội có các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt hoặc phạm tội nghiêm trọng, có mức hình phạt cao hoặc người phạm tội đã có tiền án, tiền sự, phạm tội nhiều lần, có đồng phạm, tái phạm, đã bị xử lý hành chính... đáng lẽ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng lại được đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự dẫn đến tình trạng lọt tội phạm và người phạm tội, hoặc một số trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội gây ra hậu quả nghiêm trọng, hoặc nhầm lẫn giữa trường hợp có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với miễn trách nhiệm hình sự...

Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam - 13

Thứ hai, cũng trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự, cơ quan và người có thẩm quyền đã coi và áp dụng một số trường hợp sau cũng là những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự như: Miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì sau khi áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, thấy không cần thiết truy cứu trách nhiệm hình sự; miễn trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; miễn trách nhiệm hình sự đối với một số trường hợp người phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục hậu quả và gia đình hoặc người bị hại có đơn xin bãi nại, người phạm tội là người già hoặc đang bị bệnh nặng...

Thứ ba, về thẩm quyền và căn cứ đình chỉ vụ án cho thấy qua số án, số bị can do Viện kiểm sát và cơ quan Điều tra các tỉnh, thành phố đình chỉ hầu hết đều có căn cứ và đúng pháp luật, nhưng còn một số ít các Viện kiểm sát tỉnh, thành phố do không nhận thức đúng các quy định của pháp luật nên đã

vận dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 32 của Quốc hội để đình chỉ không tội và đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự đối với vụ án, bị can; nhầm lẫn giữa hai điều luật quy định về miễn trách nhiệm hình sự và điều luật quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự và ngược lại nhiều vụ lẽ ra vận dụng căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự và xử lý theo pháp luật hành chính, nhưng vẫn khởi tố vụ án hình sự, sau đó đình chỉ vụ án miễn trách nhiệm hình sự với bị can là gò ép, dập khuôn và cứng nhắc...

3.1.2. Về phương diện lập pháp

Việc hoàn thiện chế định miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự góp phần giúp cho nhà làm luật nhận thấy những "kẽ hở", "lỗ hổng" của chế định này để loại trừ những quy định đã lạc hậu, đã lỗi thời, quá trừu tượng, thiếu chính xác về mặt khoa học hoặc sửa đổi, bổ sung những quy định mới cho phù hợp với thực tiễn. Dưới góc độ này, hàng loạt vấn đề đặt ra như:

Thứ nhất, trong Bộ luật hình sự năm 1985 cũng như Bộ luật hình sự năm 1999 đều chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm "miễn trách nhiệm hình sự" là gì; hậu quả pháp lý cụ thể của việc miễn trách nhiệm hình sự là gì; người được miễn trách nhiệm hình sự có thể bị áp dụng một hay nhiều biện pháp cưỡng chế phi hình sự nào khác (tố tụng hình sự, hành chính, dân sự, kỷ luật, lao động...) hay không.

Thứ hai, những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cụ thể được quy định rải rác ở các điều luật, các chương, các phần khác nhau (Phần chung và Phần các tội phạm) của Bộ luật hình sự rõ ràng là thiếu tính chính xác về mặt khoa học và chưa đạt về mặt kỹ thuật lập pháp. Ngoài ra, trong từng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cụ thể cũng cần được nhà làm luật có hướng dẫn kịp thời về căn cứ và những điều kiện của trường hợp tương ứng đó mà chúng tôi đã phân tích ở chương thứ hai của luận văn này.

Thứ ba, quá trình áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự cho thấy thực tiễn đời sống xã hội nói chung và thực tiễn xét xử nói riêng

đang tồn tại nhiều trường hợp có thể áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự, nhưng lại chưa được nhà làm luật nước ta ghi nhận trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành. Ví dụ: miễn trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội trốn khỏi nơi giam, miễn trách nhiệm hình sự do sự hòa hoãn giữa người phạm tội và người bị hại, miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội là người già có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự...

Thứ tư, trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới cũng đòi hỏi pháp luật hình sự của nước ta nói chung, chế định miễn trách nhiệm hình sự nói riêng cũng cần phù hợp và có sự tham khảo, chọn lọc các quy định của pháp luật hình sự các nước (trong đó có những quy định về miễn trách nhiệm hình sự), cũng như góp phần nhân đạo hóa hơn nữa chính sách hình sự của Nhà nước nói chung và của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng.

3.1.2. Về phương diện lý luận

Hoàn thiện chế định miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa về mặt lý luận thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, nó góp phần giúp cho cán bộ nghiên cứu khoa học-giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự có nhận thức đúng đắn và thống nhất về những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, về căn cứ và những điều kiện áp dụng của từng trường hợp tương ứng để phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập.

Thứ hai, nó còn giúp cho những người có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng (như: điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán...) nhận thức đầy đủ, đúng đắn và chính xác để từ đó ra các quyết định áp dụng hay không áp dụng miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có căn cứ và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống

tội phạm, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp không chỉ của công dân, mà còn cả của bị can, bị cáo.

Thứ ba, hoàn thiện chế định miễn trách nhiệm hình sự dưới góc độ này sẽ góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận luật hình sự Việt Nam, cũng như là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích bổ sung vào khoa học luật hình sự nước ta về vấn đề miễn trách nhiệm hình sự.


3.2. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

Phương hướng, theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu: "1. Hướng được xác định và; 2. Những điều được xác định để nhằm theo đó mà hành động" [53, tr. 793]. Còn trong khoa học luật hình sự nước ta từ trước đến nay chưa có định nghĩa về khái niệm phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi khái niệm này có thể được hiểu như sau: Phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự là tư tưởng có tính chất chỉ đạo, xuyên suốt toàn bộ quá trình đổi mới, sửa đổi và bổ sung những quy phạm của chế định này.

Như chúng ta đã biết, Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành là công cụ pháp luật sắc bén, hữu hiệu của Đảng, Nhà nước và của nhân dân ta để đảm bảo pháp chế, củng cố và duy trì trật tự pháp luật, góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như bảo vệ một cách hữu hiệu lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của công dân. Tuy nhiên, qua một thời gian áp dụng thi hành cho thấy: một số quy định của Bộ luật hình sự nói chung, các quy định về miễn trách nhiệm hình sự nói riêng còn chưa đầy đủ, chặt chẽ và chính xác về nội dung, chưa phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới, chưa phù hợp với quy định

pháp luật hình sự của các nước trên thế giới, đặc biệt còn nhiều quy định cần có sự hướng dẫn kịp thời và thống nhất của các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền.

Do đó, việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung những quy định cũ, xây dựng những quy định mới nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự là đòi hỏi có tính cấp bách. Tuy nhiên, việc đổi mới và hoàn thiện này phải dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, trên cơ sở tổng kết thực tiễn và phải là cơ sở pháp lý vững chắc thể hiện được các tư tưởng pháp chế, nhân đạo, dân chủ, cũng như phù hợp với pháp luật hình sự các nước trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Và đây cũng chính là phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở này, chúng tôi đưa ra một số phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự như sau.

3.2.1. Phương hướng cơ bản thứ nhất - Quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung, các quy định về miễn trách nhiệm hình sự nói riêng

Đây là phương hướng cơ bản và quan trọng nhất trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự.

Như chúng ta đều biết, ở nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức duy nhất lãnh đạo mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và đường lối đó. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không thể có độc lập dân tộc, không có quyền làm chủ của nhân dân và không có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Trong lĩnh vực đấu tranh phòng và chống tội phạm nói chung, quy định về miễn trách nhiệm hình sự nói riêng, Đảng lãnh đạo bằng việc xác định rõ đường lối, chính sách hình sự trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Điều này đã được thể hiện trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX. Đặc biệt, vừa qua Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" đã thể hiện rất rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc đưa ra chủ trương, đường lối và chính sách hình sự trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, góp phần cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Do đó, trong quá trình đổi mới và hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung, các quy định về miễn trách nhiệm hình sự nói riêng đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, nhận thức đúng đắn các quan điểm của Đảng ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, thể hiện trong việc kết hợp nguyên tắc "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục " trong việc xử lý tội phạm và người phạm tội. Chính vì vậy, việc đổi mới và hoàn thiện các quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam mới có khả thi, phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế-xã hội ở nước ta.

3.2.2. Phương hướng cơ bản thứ hai - Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự phải phù hợp với Hiến pháp, đồng thời có tính đến sự đồng bộ các đạo luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Ngày 25/12/2001, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 để hoàn thiện các quy định trong Hiến pháp này cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Bởi lẽ, Hiến pháp là một đạo luật cơ bản của Nhà nước, đạo luật gốc đặt ra những quy định có tính chất nền tảng của chế độ Nhà nước, chế độ xã hội,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/12/2022