Nội Dung Hoàn Thiện Bộ Luật Hình Sự Về Các Tội Xâm Phạm Nghĩa Vụ, Trách Nhiệm Của Quân Nhân


Trong các vụ án nêu trên, các bị cáo đều thực hiện hành vi rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ tiếp tục phục vụ trong Quân đội bằng cách rời khỏi và không trở lại đơn vị nữa. Theo chúng tôi, các hành vi trên là hành vi đào ngũ nhưng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự các bị cáo về tội phạm này vì chưa bị cáo nào bị xử phạt kỷ luật. Việc không có bị cáo nào bị xử phạt kỷ luật xuất phát từ: quy định tại khoản 1 Điều 325 Bộ luật hình sự “Người nào rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm…”; và quy định của Điều lệnh quản lý bộ đội về thủ tục xem xét và quyết định kỷ luật đối với quân nhân (mà chúng tôi đã có dịp trình bày ở Tiểu mục 2.2.4 của Luận án).

- Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần”, “cố tình phạm tội đến cùng” đối với người thực hiện nhiều lần hành vi rời bỏ đơn vị đã bị kỷ luật mà còn vi phạm cũng chưa thống nhất. Ví dụ:

Trần Quốc L - Chiến sỹ Đại đội 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn A, Quân đoàn B thực hiện 6 lần hành vi bỏ đơn vị về nhà trong khoảng thời gian từ tháng 0 năm 2001 đến 01/03/2002. Cứ sau mỗi lần trở lại đơn vị, thì L lại bị xử lý kỷ luật. Ngày 10/03/2002 L lại tiếp tục bỏ đơn vị về nhà đến 25/03/2002 trở lại đơn vị và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đào ngũ.

Hồ Gia K- chiến sỹ Tiểu đoàn M, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Long An cũng phạm tội tương tự như Trần Quốc L và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đào ngũ.

Hai vụ án nêu trên đều do Toà án quân sự khu vực 1 Quân khu 7 xét xử, áp dụng khoản 1 Điều 325, điểm e (cố tình phạm tội đến cùng) khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt Hồ Gia K và Trần Quốc L về tội đào ngũ [83, 84].


Trong khi Triệu Ngọc V, Phan Minh H và Phạm Ngọc T cũng có số lần bỏ đơn vị và bị xử lý kỷ luật tương tự như Trần Quốc L và Hồ Gia K, thì lại bị áp dụng khoản 1 Điều 325, điểm g (phạm tội nhiều lần) khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự và xử phạt về tội đào ngũ [86, 89, 90].

Chúng tôi cho rằng, hành vi mà các bị cáo Trần Quốc L, Triệu Ngọc V, Phan Minh H và Phạm Ngọc T thực hiện chỉ là hành vi vắng mặt trái phép nhiều lần. Do vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự các bị cáo về tội đào ngũ theo quy định tại khoản 1 Điều 325 Bộ luật hình sự chỉ đúng với quy định của Bộ luật hình sự mà không đúng với bản chất hành vi phạm tội. Sẽ là chính xác nếu xử phạt các bị cáo về tội vắng mặt trái phép theo quy định tại Điều 261 Bộ luật hình sự năm 1985. Đồng thời chỉ khi đó mới có thể áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần.” Đồng thời, dù truy cứu trách nhiệm hình sự các bị cáo này về tội đào ngũ hay vắng mặt trái phép, thì cũng không thể áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “cố tình thực hiện tội phạm đến cùng”. Bởi vì, tội đào ngũ và tội vắng mặt trái (trước đây) đều là tội phạm kéo dài (tội phạm đã hoàn thành nhưng hoạt động phạm tội vẫn chưa chấm dứt). Nguyên nhân của tình trạng này cũng xuất phát từ việc Bộ luật hình sự năm 1999 đã phi tội phạm hoá hành vi vắng mặt trái phép.

- Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm chế độ, quy tắc bảo quản, sử dụng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự vẫn còn có sự chưa thống nhất về đối tượng tác động của tội phạm . Ví dụ:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

Thượng uý chuyên nghiệp Vương Văn T là thủ kho Nhà máy Z (Công ty Z), Tổng cục công nghiệp quốc phòng chuyên sản xuất thuốc nổ. Sản phẩm thuốc nổ của đơn vị vừa được dùng cho các đơn vị quân đội vừa được bán cho các tổ chức ngoài quân đội (khi được phép của Bộ Công nghiệp) để dùng vào mục đích dân sự như khai thác mỏ đá, thi công hầm.... Do không làm tốt công


Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - 20

tác bảo quản nên Vương Văn T để vòi nước chữa cháy chảy tràn vào kho làm hư hỏng 500 kg thuốc nổ, trị giá khoảng hơn 15 triệu đồng.

Quá trình giải quyết vụ việc nêu trên có ba quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, hành vi của Vương Văn T là hành vi vô ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng nên phải truy cứu trách nhiệm hình sự Vương Văn T về tội vô ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 335 Bộ luật hình sự. Quan điểm thứ hai cho rằng, hành vi của Vương Văn T là hành vi thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước nhưng với thiệt hại là hơn 15 triệu đồng thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự Vương Văn T về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước. Bởi vì, theo quy định tại khoản 1 Điều 144 Bộ luật hình sự, thì chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước khi thiệt hại xảy ra có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên. Quan điểm thứ ba cho rằng, hành vi của Vương Văn T là hành vi vô ý gây thiệt hại đến tài sản nhưng với thiệt hại là hơn 15 triệu đồng thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự Vương Văn T về tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Bởi vì, theo quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật hình sự, thì chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi vô ý gây thiệt hại đến tài sản của người khác khi thiệt hại xảy ra có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên.

Chúng tôi cho rằng, thuốc nổ nêu trên của Nhà máy Z (Công ty Z) là sản phảm do Nhà máy sản xuất ra để trang bị cho các đơn vị quân đội hoặc để bán cho các tổ chức ngoài quân đội (khi được phép của Bộ Công nghiệp) dùng vào mục đích dân sự như khai thác mỏ đá, thi công hầm.... Theo quy định tại Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12- 8-1996 của Chính phủ, thì chỉ khi nào số thuốc nổ được trang bị cho các đơn vị quân đội dùng vào mục đích


quốc phòng-an ninh mới được coi là vũ khí quân dụng [12, tr. 942-943]. Số thuốc nổ nêu trên chưa được trang bị cho đơn vị cụ thể nào của quân đội nên nó chỉ mới tồn tại dưới dạng hàng hoá của Công ty Z nên chưa phải là vũ khí quân dụng. Do vậy, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự Vương Văn T về tội vô ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 335 Bộ luật hình sự. Mặt khác, thiệt hại do hành vi của Vương Văn T gây ra chỉ mới hơn mười lăm triệu đồng (dưới mức tối thiểu quy định tại các Điều 144 và 145 Bộ luật hình sự) cho nên không thể truy cứu trách nhiệm hình sự Vương Văn T về một trong hai tội quy định tại các điều luật nêu trên của Bộ luật hình sự. Nguyên nhân của việc không thể truy cứu trách nhiệm hình sự Vương Văn T xuất phát từ quy định tại Nghị định số 47/CP ngày 12 -8-1996 của Chính phủ (ban hành Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ) chưa dự liệu đến trường hợp thuốc nổ do Nhà máy (của Quân đội) sản xuất ra để trang bị cho các đơn vị quân đội hoặc để bán cho các tổ chức ngoài quân đội là vũ khí quân dụng hay hàng hoá (kinh doanh có điều kiện).

- Thực tiễn xét xử tội huỷ hoại vũ khí quân dụng có trường hợp kết án người thực hiện hành vi cố ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng về tội huỷ hoại vũ khí quân dụng theo quy định tại Điều 334 Bộ luật hình sự. Ví dụ:

Quân nhân Khổng Quang K là Thủ kho vũ khí Trung đoàn H, Sư đoàn C, Quân chủng Phòng không- Không quân. Ngày 10/01/1996, lợi dụng thời gian bảo quản vũ khí trong kho, K đã tháo một bình pin khô trong quả đạn tên lửa để dùng vào việc cá nhân làm cả quả đạn trở nên vô tác dụng. Để khắc phục hậu quả, đơn vị đã lắp bình pin khô dự trữ vào vị trí bình pin mà K đã lấy đi. Quá trình giải quyết vụ án có một số quan điểm về việc định tội danh đối với Khổng Quang K như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, Khổng Quang K phạm tội phá huỷ vũ khí theo quy định tại Điều 269 Bộ luật hình sự năm 1985 (Điều 334 Bộ luật hình sự năm 1999) [77]. Quan điểm thứ hai cho


rằng, Khổng Quang K không phạm tội phá huỷ vũ khí theo quy định tại Điều 269 Bộ luật hình sự năm 1985. Bởi vì: hành vi mà Khổng Quang K thực hiện chỉ là hành vi cố ý làm hư hỏng quả đạn tên lửa và thực tế giá trị sử dụng của quả tên lửa đã được khôi phục bằng cách lắp bình pin khô dự trữ vào vị trí quả pin đã bị lấy đi; tên tội danh và hành vi phạm tội được mô tả tại Điều 269 Bộ luật hình sự năm 1985 (Điều 334 Bộ luật hình sự năm 1999) là “huỷ hoại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự”.

Sự tranh chấp trong việc định tội danh đối với Khổng Quang K xuất phát từ quy định tại khoản 1 Điều 334 Bộ luật hình sự “Người nào huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 85 và Điều 231 Bộ luật này, thì…”bị coi là phạm tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Với quy định như trên, thì tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự chỉ là hành vi cố ý làm mất hoàn toàn giá trị sử dụng của vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (như chúng tôi đã đề cập tại Tiểu mục 2.2.6 của Luận án).

Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn áp dụng Điều 95, 96 Bộ luật hình sự năm 1985, thì phải truy cứu trách nhiêm hình sự những người được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1985 phá vũ khí quân dụng để lấy một hoặc một số bộ phận về tội huỷ hoại vũ khí theo quy định tại Điều 269 Bộ luật hình sự năm 1985; nếu việc thực hiện hành vi đó không nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân. Do vậy, Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt Khổng Quang K về tội phá huỷ vũ khí theo quy định tại Điều 269 Bộ luật hình sự năm 1985 (Điều 334 Bộ luật hình sự năm 1999) là có căn cứ. Nhưng để hạn chế tình trạng nêu trên và bảo đảm chặt chẽ về lô gích ngôn ngữ thì phải sửa đổi, bổ sung Điều 334 Bộ luật hình sự.


Từ thực tiễn định tội danh, áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; chúng tôi cho rằng, với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” và hướng dẫn của cơ quan liên ngành có thể dẫn tới: việc để lọt tội phạm; nhầm lẫn trong việc định tội danh; sai sót trong việc xác định đồng phạm; áp dụng không đúng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm này. Như vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự không chỉ xuất phát từ cơ sở lý luận mà còn xuất phát từ cơ sở thực tiễn áp dụng chúng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.

- Quyết định hình phạt trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân nói riêng luôn là vấn đề phức tạp. Nghiên cứu tổng số các bản án kết tội các bị cáo về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiện của quân nhân trong thời gian từ 2000 đến 2009, chúng tôi thấy:

+ Về tội phạm, có: 18,56% số bị cáo bị kết án về tội ít nghiêm trọng xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; 81,44 số bị cáo bị kết án về tội nghiêm trọng xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân;

+ Về hình phạt, có: 12,35% số bị cáo bị áp dụng hình phạt cảnh cáo; 17,64% số bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ; và 70,01% số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn (trong đó số bị cáo bị phạt tù cho hưởng án treo chiếm 27,43% số bị cáo bị phạt tù). Mức hình phạt tù được áp dụng chủ yếu là bằng hoặc trên mức khởi điểm của khung hình phạt.

+ Về nhân thân số bị cáo bị áp dụng hình phạt, có: 75,62% là hạ sỹ quan, chiến sỹ; 18,43% là quân nhân chuyên nghiệp; và 5,95% là sỹ quan. Trong số đó: hình phạt cảnh cáo và tù có thời hạn được áp dụng đối với cả


bốn đối tượng là hạ sỹ quan, chiến sỹ, quân nhân chuyên nghiệp và sỹ quan; riêng hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với quân nhân chuyên nghiệp và sỹ quan.

Như vậy, trong tổng số 24,38% (18,43 % + 5,95%) bị cáo nguyên là quân nhân chuyên nghiệp, sỹ quan bị kết án và áp dụng hình phạt có 17,64% số bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc không có hạ sỹ quan, chiến sỹ nào bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ được lý giải như sau: “Hạ sỹ quan, chiễn sỹ là những người hưởng phụ cấp – là khoản thu nhập chỉ bảo đảm cho sinh hoạt hàng ngày của họ. Nếu áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với họ, thì Toà án sẽ phải quyết định việc khấu trừ từ 5% đến 20% phụ cấp của họ; và khi ấy, thì không bảo đảm cho họ có đủ điều kiện cho những sinh hoạt tối thiểu hàng ngày. Do vậy, mặc dù kết án hạ sỹ quan, chiễn sỹ về tội có quy định hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng các Toà án quân sự vẫn chưa không áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với họ [73, tr. 8]”.

Việc không có bị cáo nào bị phạt tù chung thân, tử hình về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có thể lý giải là trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong thời gian từ 2000 đến 2009 không có bị cáo nào bị kết án về tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.

Từ kết quả của việc nghiên cứu thực tiễn quyết định hình phạt trong các vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; chúng tôi cho rằng:

Việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt áp dụng đối với các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo tinh thần cải cách tư pháp “… đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong


việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm” [16, tr. 3] là cần thiết. Tuy nhiên, việc quy định những loại hình phạt cụ thể nào với mức bao nhiêu đối với từng tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân phải bảo đảm sự đồng bộ với các tội phạm quy định ở các Chương khác của Bộ luật hình sự. Do vậy, trong phần kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc đề nghị sửa đổi, bổ sung các tính tiết định tội, định khung hình phạt.

3.2. Nội dung hoàn thiện bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

3.2.1. Hoàn thiện quy định chung của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

3.2.1.1. Xác định tên gọi của Chương “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân”

Như đã trình bày (ở Tiểu mục 1.2.2 của Luận án) khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là các quan hệ xã hội tồn tại trong quân đội hoặc khi có hoạt động quân sự. Mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XXIII Bộ luật hình sự và chỉ có thể xảy ra trong các hoạt động quân sự. Đó không chỉ bao gồm các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mà còn cả những hành vi: vi phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của những người không phải là quân nhân như dân quân tự vệ, công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội; vi phạm pháp luật

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 09/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí